Bài đăng trên e-thuuvien.com : http://www.e-thuvien.com/forums/showthread.php?t=25502
MỤC LỤC
Chương thứ nhất : ĐỐI VỚI BẢN THÂN
I.-Tu thân…………………….3
II.-Lập chí…………………….6
III.-Nhân phẩm…………………….8
IV.-Học vấn…………………….11
V.-Tính tình…………………….14
VI.-Thành tín…………………….15
VII.-Chí tiết…………………….17
VIII.-Ngôn hành…………………….17
IX.-Quá thất…………………….21
X.-Vệ sinh…………………….22
Chương thứ hai : ĐỐI VỚI GIA TỘC
I.-Trị gia…………………….24
II.-Hiếu, hữu…………………….26
III.-Giáo dục…………………….27
IV.-Lễ độ…………………….28
V.-Cần đại…………………….29
VI.-Xa, kiệm…………………….30
VII.-Từ, ái…………………….31
VIII.-Độ lượng…………………….32
IX.-Phòng hoạn…………………….33
Chương thứ ba : ĐỐI VỚI NHÂN QUẦN, XÃ HỘI
I.-Xử sự…………………….34
II.-Trí ngu…………………….39
III.-Dũng lực…………………….40
IV.-Công, tư…………………….41
V.-Tri túc…………………….41
VI.-Giới tham…………………….42
VII.-Xử thế…………………….43
VIII.-Nhân, nghĩa…………………….45
IX.-Khiêm cẩn…………………….46
X.-Chí khí…………………….47
XI.-Khoan thứ…………………….49
XII.-Thiện, ác…………………….50
XIII.-Hiếu, ố…………………….51
XIV.-Thủ dữ…………………….52
XV.-Giao tế…………………….52
XVI.-Bần, phú…………………….55
XVII.-Ân, oán…………………….57
XVIII.-Lợi, hại…………………….57
XIX.-Họa, phúc…………………….58
XX.-Tế ngộ…………………….60
XXI.-Đạt sinh…………………….60
XXII.-Vật loại…………………….62
Chương thứ tư : TẠP NGỮ
I.-Tạp ngữ…………………….63
Bản
ý chúng tôi cốt là để tự tu cùng làm một thứ giúp cho sự tu dưỡng của các cậu,
các cô học trò tuổi trẻ.
Trong
tập này hoặc có câu nào kén chọn chưa tinh, xếp đặt nhầm lẫn, phiên dịch không
đúng nghĩa, dám mong những bậc bác nhã quân tử trong nước chỉ bảo cho; thì thật
là may cho chúng tôi lắm. Đến như đua đòi lập ngôn, thì chúng tôi đâu dám.
Hà Nội ngày 18 tháng 9 năm Đinh Mão
TRẦN-LÊ-NHÂN
HÁN HỌC DANH NGÔN
Chương Thứ Nhất
Đối với bản thân
1.-Người quân tử ghi nhớ rõ
nhiều những câu nói hay, việc làm tốt của người đời trước, để nuôi cái đức của
mình.
Dịch-Kinh
2.-Thấy phải thời theo, có lỗi
thời đổi.
Dịch-Kinh
3.-Người quân tử cử động thận
trọng, không sơ suất với ai ; dong mạo đoan trang, không thất sắc (1) với ai ;
ngôn ngữ cẩn thận, không sảy miệng với ai.
Lễ-Kỵ
(1) Thất sắc : Kiêu ngạo, khinh bạc, mất vẻ tự
nhiên.
4.-Vấn tâm (1) không có điều
gì đáng thẹn, thì còn lo gì, sợ gì.
Luận-ngữ
(1) Vấn tâm : Tự mình hỏi mình.
5.-Lúc nhỏ khí huyết chưa
sung túc, phải giữ gìn sắc dục ; lúc nhớn khí huyết đang hăng hái, phải giữ gìn
việc tranh đấu ; lúc già khí huyết đã suy kém, phải giữ gìn việc tham lam.
Luận-ngữ
6.-Yêu mến người mà người
không thân thiết với mình, thì xét lại lòng “nhân” của mình đã đầy đủ chưa ;
quý trọng người mà người không lễ phép với mình, thì xét lại xem sự “kính” của
mình đã chu chí chưa.
Mạnh-Tử
7.-Tự mình khinh mình trước,
người ngoài mới khinh mình sau.
Mạnh-Tử
8.-Phàm làm gì mà có điều
chưa thoả lòng, thì nên xét lại thân mình, xem làm như thế, đã là phải hẳn
chưa.
Mạnh-Tử
9.-Danh dự quá
sự thật, nguời quân tử lấy làm xấu hổ.
Mạnh-Tử
10.-Ngửng lên
không hổ với giời, cúi xuống không thẹn với người, đó là một điều vui sướng.
Mạnh-Tử
11.-Tu tỉnh
tâm thân, thận trọng công việc, không thế, thì sợ nhục đến tổ tiên.
Hiếu-Kinh
12.-Chớ lo
không được quan to, nên lo cái “đức” của mình còn kém cỏi; chớ tủi không được lộc
hậu, nên tủi cái “trí” của mình còn hẹp hòi.
Trương-Hành-Truyện
13.-Tự xét
thân mình, miễn là không thẹn ; thị phi miệng thế, thì có quản chi.
Ban-Siêu-Truyện
14.-Nhất tâm
(1) ăn ở cho phải đạo, thì giời cũng không làm hại nổi.
Tuân-Tử.
(1) Nhất tâm : Trước sau bao giờ cũng một lòng như vậy.
15.-Giản dị
quá, người ta hay nhờn ; nghiêm trang quá, người ta không thân.
Thuyết-Uyển
16.-Kẻ chịu
thiệt thường được ích, kẻ ích mình thường hay thiệt.
Thuyết-Uyển
17.-Sự yêu hãnh
(1) là cái búa chém đẽo cái tính linh (2). Sự mê đắm là con ngựa theo đuổi cái
tai vạ.
Thuyết-Uyển
(1) Yêu hành : Sự
không đáng được mà cố cầu may cho được.
(2) Tính linh : Tính hay và tốt giời phú sẵn cho người ta.
18.-Nói cho
hay, làm cho phải, thế là tu thân.
Tố-Như
19.-Kẻ không
chịu sửa mình mà muốn có tiếng thơm để đời, thì khác nào mặt xấu mà muốn có
hình đẹp ở trong gương.
Nhan-Thị
Gia-Huấn
20.-Lập thân
còn gì khó bằng làm thế nào cho không tủi thẹn (1); thủ thân còn gì khó bằng
làm thế nào cho khỏi điếm nhục (2); phòng thân còn gì khó bằng làm thế nào cho
ít bệnh tật.
Tuân-Sinh-Tiên
(1) Tủi thẹn : Sự
khó chịu, bởi lương tâm cắn rứt mà sinh ra.
(2) Điếm nhục : Sự xấu xa, nhem nhuốc.
21.-Thói khinh
bạc (1), đem đối đãi với người quân tử, thời tự mình làm cho mình thất đức (2);
đem đối đãi với kẻ tiểu nhân, thời tự mình làm cho mình hại thân.
Tuân-Sinh-Tiên
(1) Khinh bạc : Kiêu căng khinh bỉ, tuyệt không có tí gì trọng
hậu.
(2) Thất đức : Ăn ở không ra gì, mất hẳn nết tốt.
(3) Hại Thân : Thiệt đến tính mệnh.
22.-Bể tình dục,
lấp mãi mà không đầy.
Thành sầu khổ,
phá mãi mà không tan.
Khuyến-Giới
Toàn-Thư
23.-Tâm địa để
lâu, không đem việc hay đời cổ để tắm tưới, thì nhem nhuốc những trần tục (1) ;
soi gương mặt mũi đáng ghét, trò chuyện nhạt nhẽo khó nghe.
Hoàng-Đinh-Kiên
(1) Trần tục : Bẩn thỉu, tục tằn.
24.-Tâm nên để
cho vui, mà hình thể nên để cho khó nhọc.
Lâm-Bô
25.-Không xấu
với miệng, chẳng bằng không xấu với thân; không xấu với thân, chẳng bằng không
xấu với tâm.(Không nói bậy, chẳng bằng không làm bậy; không làm bậy, chẳng bằng
không nghĩ bậy.)
Thiệu-Ung
26.-Không phấn
phát (1) thì một ngày một lười nản ; không kiềm thúc (2) thì một ngày một dông
dài.
Chu-Hi
(1) Phấn phát : Cố gắng.
(2) Kiềm thúc : Xem xét giữ gìn.
27.-Đem lòng
yêu vợ con ra yêu cha mẹ thời là hiếu ; đem lòng giữ nhà ra giữ nước thời là
trung ; đem lòng trách người ra trách mình thời ít lỗi ; đem lòng dong mình ra
dong người thời trọn nghĩa.
Cảnh-Hành-Lục
28.-Tâm niệm
trầm tiềm mãi mãi, thì lẽ gì mà nghĩ chả ra. Chí khí phấn phát luôn luôn, thì
việc gì mà chả làm nổi.
Lã-Khôn
29.-Tâm phải
cho to để dung nạp những người trong thiên hạ ; tâm phải cho rộng để chịu đựng
cái hay trong thiên hạ ; tâm phải công bằng để bàn việc trong thiên hạ ; tâm phải
trầm tiềm để xét lý trong thiên hạ ; tâm phải vững vàng để chống lại với biến cố
(1) trong thiên hạ.
Lã-Khôn
(1) Biến cố : Tai biến, hoạn nạn.
30.-Tâm thuật
quí nhất là quang minh, trung hậu ; dung mạo quí nhất là chính đại, lão thành
(1) ; ngôn ngữ quý nhất là giản dị, chân thật.
Lã-Khôn
(1) Lão thành : Từng trải.
31.-Muốn bỏ
tính lười thì trước hết đừng sáng dậy trưa ; muốn bỏ thói kiêu thì trước hết đừng
nhẹ miệng chê cười thiên hạ.
Tăng-Quốc-Phiên
32.-Kẻ có tài
hơn người, tất có tình dục hơn người, mà không có lòng đạo đức hơn người để tự
trị lấy mình, thì lại là tôi tớ cho tình dục.
Lương-Khải-Siêu
33.-Yên vui,
thư nhàn là thứ thuốc độc, không nên quyến luyến ham mê.
Tả-Truyện
34.-Thà làm mỏ
con gà, còn hơn làm đít con trâu.
Chiến-Quốc-Sách
35.-Tài giai
nên ngang dọc trời đất, không nên quanh quẩn xó nhà.
Triệu-Ôn
36.-Cây chi,
cây lan tuy mọc chỗ rừng vắng mà hoa vẫn thơm ; người quân tử theo lẽ phải, làm
điều hay, tuy gặp khốn cùng, mà tiết hạnh vẫn không đổi.
Gia-Ngữ
37.-Kẻ trông
mong vào người thì không được chắc ; kẻ nhờ cậy vào người thì không được lâu.
Hàn-Thi-Ngoại-Truyện
38.-Người có
chí thì việc gì cũng nên.
Hán-Quang-Vũ
39.-Gây dựng
cho nên, khó hơn lên trời ; phá hoại cho hỏng, dễ như đốt lông.
Liêu-Tì
40.-Của chứa
nghìn vạn, không bằng nghề mọn trong tay.
Nhan-Thị
Gia-Huấn
41.-Người sinh
ở đời, không có một ít nghị luận hay, một ít công nghiệp tốt, suốt ngày chỉ ăn
no, mặc ấm, mà không dụng tâm (1) , thì khác gì loài vật.
Tô-Tử-Do
(1) Dụng tâm : Để bụng, để chí làm việc gì.
42.-Mắt không
theo người trông, tai không theo người nghe, miệng không theo người nói, mũi
không theo người ngửi.
Nguyên-Kết
43.-Lâu nay đời
vẫn làm đắm đuối loài người, cái chí của ta là cái để độ thân ta, mà sóng gió
không thể xiêu dạt vùi dập được.
Chúc-Vô-Công
44.-Giời có thể
cho người ta được mùa; không thể cày cấy hộ được.
Ngụy-Liễu-Ong
45.-Ở đời có
ba điều đáng tiếc : một là hôm nay bỏ qua, hai là đời này chẳng học, ba là thân
này nhỡ hư.
Chu-Hi
46.-Trên thì
giời, dưới thì đất, người ta ở khoảng giữa ; làm người có ra người thì mới
không uổng.
Chu-Hi
47.-Tuổi trẻ
không gắng sức, già cả những ngậm ngùi.
Cổ-Thi
48.-Làm người
nên tự lập (1), tự trọng (2), không nên bước theo gót người (3), nói theo miệng
người (4).
Lục-Cửu-Uyên
(1) Tự lập : Tự mình lập lấy thân mình; không bá bạ nương tựa
vào người khác.
(2) Tự trọng : Tự mình biết quý trọng phẩm giá, tư cách của
mình, không chịu đê mạt.
(3) Theo gót : Làm theo đuôi, tôi tớ người ta.
(4) Theo miệng : Cười theo, dạ hớt, nịnh hót.
49.-Cắn chặt
răng để chịu thiệt, đứng vững bước để làm người (có lượng và có gan).
Cổ-Ngữ
50.-Tài giai
nên đỉnh đạc đứng ở cõi đời.
Ngô-Dụng-Trai
51.-Đối với
người đời xưa mà chịu thua kém, là không có chí ; đối với người đời nay mà
không bao dong, là không có lượng.
Lưu-Cao
52.-Người
không có chí, như thuyền không lái, như ngựa không cương, trôi dạt lông bông,
không ra thế nào cả.
Vương-Thú-Nhân
53.-Học dễ mà
thích học thì khó, làm dễ mà hết sức làm thì khó, xấu hổ dễ mà biết xấu hổ thì
khó.
Vương-Thuyền-Sơn
54.-Những việc
nghĩa, nên làm, sức đủ làm, bụng muốn làm ; vì bè bạn, vợ con gàn trở, mà thôi
không làm, thế là người vô chí.
Lã-Khôn
55.-Nghèo
không là xấu, nghèo mà không có chí mới là xấu ; hèn không đáng ghét, hèn mà
không có tài mới đáng ghét ; già không nên than thở, già mà sống thừa mới đáng
than thở ; chết không nên bi ai, chết mà vô bổ mới đáng bi ai.
Lã-Khôn
56.-Chúng ta
sinh sau cổ nhân, nên làm con cháu cổ nhân, chẳng nên làm tôi tớ cổ nhân.
Ngụy-Hy
57.-Phàm lúc
nguy cấp, chỉ nên trông cậy những điều của mình, không nên trông cậy những điều
của người.
Tăng-Quốc-Phiên
58.-Người quân
tử hiểu rõ việc nghĩa, cho nên thích nghĩa ; kẻ tiểu nhân hiểu rõ việc lợi, cho
nên thích lợi.
Luận-Ngữ
59.-Người quân
tử hòa thuận mà không a-dua ; kẻ tiểu nhân a-dua mà không hòa thuận.
Luận-Ngữ
60.-Kẻ sĩ (1)
mà còn quyến luyến những sự thuận tiện, yên vui cho xác thịt, thì tâm lụy (2),
chí hèn (3), không đáng gọi là kẻ sĩ.
Luận-Ngữ
(1) Sĩ : Người có học vấn.
(2) Tâm lụy : Tâm thân phải ngoại vật nó vướng vít.
(3) Chí hèn : Ý chí suy kém, không hăng hái.
61.-Người
nghĩa không dối mình, người liêm không lấy bậy.
Thuyết-Uyển
62.-Người thường
trọng lợi, người giỏi trọng danh.
Trang-Tử
63.-Người quân
tử phi nhân nghĩa, thì không sống được; kẻ tiểu nhân phi thị dục, cũng không sống
được.
Hoài-Nam-Tử
64.-Giàu đục
không bằng nghèo trong, sống nhục không bằng chết vinh.
Lễ-Ký
65.-Trung tín,
cẩn thận, là cái nền thành người hay ; hão huyền, quỉ quyệt, là cái gốc thành
người dở.
Tiềm-Phu
66.-Hiền ngụ tại
tâm tính, không ở tại sang hèn.
Tiềm-Phu
67.-Người tuấn
kiệt mới biết việc đời.
Thục-Chí
68.-Phàm việc
gì mà chịu thiệt, ấy là người tốt ; phàm việc chiếm phần hơn, ấy là người xấu.
Phạm-Thân-Tập
69.-Thiên hạ
chưa lo đến, mình lo trước thiên hạ ; thiên hạ đã vui rồi, mình vui sau cả
thiên hạ.
Phạm-Trọng-Yêm
70.-Giữ việc đạo
nghĩa, làm việc trung tín, trọng việc danh tiết.
Ấu-Dương-Tu
71.-Kẻ đại
gian giống như người trung, kẻ đại nịnh giống người tín.
Lã-Hối
72.-Khí tượng
như chim phượng hoàng liệng trên mây xanh, thì những lợi hại cỏn con, không động
được tâm nữa.
Trình-Di
73.-Người biết
“đạo” tất không khoe, người biết “nghĩa” tất không tham, người biết “đức” tất
không thích tiếng tăm lừng lẫy.
Trương-Cửu-Thành
74.-Đời suy, đạo
vi, lòng ham muốn loài người đầy rẫy, không phải người cương nghị thì đứng vững
sao được.
Chu-Hi
75.-Thà làm
người tốt mà giá quý đệ nhất phẩm, còn hơn làm người xấu mà quan to đệ nhất phẩm.
Hải-Thụy
76.-Tâm sự người
trượng phu, nên sáng như trời xanh, rõ như ban ngày, để cho ai ai cũng được
trông thấy.
Tiết-Huyên
77.-Bố cứu giời
đất gọi là “công”, ích lợi thế gian gọi là “danh”, có tinh thần gọi là “giàu”,
có liêm sỉ gọi là “sang”, biết dọc sách gọi là “phúc”, có tiếng thơm gọi là “thọ”,
có con cháu dạy được gọi là “khang ninh”.
Trần-Cấp-Sơn
78.-Nuốt được
cái cay đắng trong cái cay đắng, mới làm được hạng người trên loài người.
Lục-Tài-Tử
79.-Thân ở
trong muôn loài, tâm ở trên muôn loài.
Bạch-Sa
80.-Kẻ có ích
cho đời, tâm địa chắc hẳn hơn người ; kẻ thụ dụng ở đời, tài tình quyết là
không lộ (những người nông nổi, trong không có gì, như chiếc thuyền nan để
không, nổi bềnh mặt nước, lung lay lúng liếng luôn luôn. Thuyền chở được nhiều,
thì bao giờ trông cũng trầm trọng).
Trần-Kế-Nho
81.-Không lấy
bậy, tay thơm ; không chơi bậy, thân thơm ; không nói bậy, miệng thơm ; không
nghĩ bậy, tâm thơm.
Thang-Nhược-Sĩ
82.-Làm quan
mà có tính nhàn tản yên vui, công việc tất nhiên trễ nải ; làm quan mà đem lòng
thương công kế lợi, tâm địa tất nhiên gian tham.
Lã-Khôn
83.-Một bậc
anh hùng cứu nạn, giúp nguy, thì cốt nhất là phải lao tâm, khổ lực(1).
Tăng-Quốc-Phiên
(1) Lao tâm, khổ lực : Nghĩ nhiều, làm nhiều.
84.-Ta có tai,
mắt, ta nghe, ta trông ; ta có tâm tư, ta suy, ta nghĩ ; ta đối với người đời
xưa, có lúc ta thờ như thầy, có lúc ta kính như bạn, cũng có lúc ta kình địch
không chịu. Ta theo công lý, nhất quyết ta không làm tôi tớ cổ nhân.
Lương-Khải-Siêu
85.-Hay hỏi
thì biết rộng, tự dụng (1) thì hẹp hòi.
Thư-Kinh
(1)Tự dụng : Tự cậy thông minh tài giỏi để làm mọi việc.
86.-Không lo,
sao có được ; không làm, sao có nên.
Thư-Kinh
87.-Ai phải là
ta học.
Thư-Kinh
88.-Có học những
câu cổ nhân dạy thì mới hay.
Thư-Kinh
89.-Ngọc không
giũa, không thành đồ đẹp ; người không học, không biết nhẽ phải.
Lễ-Ký
90.-Càng học
càng biết mình càng kém.
Lễ-Ký
91.-Để nhớn tuổi
mới học thì khó nhọc mà khó thành.
Lễ-Ký
92.-Thấy người
hay, nghĩ sao cho bằng ; thấy người dở, tự xét xem mình có như thế không.
Luận-Ngữ
93.-Chất phác
quá thì ra quê mùa, văn hóa quá thì ra hào nhoáng.
Luận-Ngữ
94.-Nghe cho
nhiều, rồi chọn điều phải, và cố làm kỳ được ; xem cho rộng, rồi ghi nhớ lấy, để
suy xét cho tường.
Luận-Ngữ
95.-Bất cập là
dở, mà thái quá cũng không hay.
Luận-Ngữ
96.-Tính người
lúc mới sinh không khác nhau mấy, chỉ vì tập quen hay thì hay, tập quen dở thì
dở.
Luận-Ngữ
97.-Học rộng
mà phải chuyên tâm, bền chí, hỏi những điều thiết thực mà suy nghĩ để hay cho
tâm thân.
Luận-Ngữ
98.-Đối với kẻ
tự hại thân, dầu nói cũng bằng thừa ; đối với kẻ tự liều thân, dầu giúp cũng vô
ích.
Mạnh-Tử.
99.-Những người
trải qua tai hoạn, thì thường thấu nhẽ và giỏi việc.
Mạnh-Tử
100.-Tin sách
cả, không bằng không sách còn hơn.
Mạnh-Tử
101.-Kẻ sĩ cần
nhất phải khí độ cho to, và kiến thức cho rộng.
Bùi-Hành-Kiệm
102.-Người ta
biết nhiều cũng là làm giàu.
Gia-Ngữ
103.-Gươm tuy
tốt, có mài mới sắc ; tài tuy tốt, có học mới cao.
Tập-Ngữ
104.-Đợi rỗi mới
học, thì lúc rỗi cũng không có thể học được.
Hoài-Nam-Tử
105.-Trăm sông
học bể, đến được bể ; gò đống học núi, không đến được núi ; là tại một đằng đi,
một đằng đứng.
Dương-Tư
106.-Băng ở nước
ra mà lạnh hơn nước ; màu xanh ở chàm ra mà thẫm hơn chàm.
Tuân-Tử
107.-Không biết
thì hỏi, không hay thì học.
Phồn-Lộ
108.-Tài cao
mà không học, vẫn chưa là hoàn toàn.
Thuyết-Uyển
109.-Kẻ học giả
không lo không có tài, chỉ lo không có chí.
Trung-Luận
110.-Hại còn
gì to bằng không chịu sửa lỗi ; nhục còn gì to bằng không biết xấu hổ.
Văn-Trung-Tử
111.-Học cũng
có ích như trồng cây : mùa xuân được hoa, mùa thu được quả.
Nhan-Thị
Gia-Huấn
112.-Đồ dùng bẩn
thì biết rửa, tâm địa bẩn sao lại để yên.
Ý-Lâm
113.-Càng học
càng hay, cũng như khát mà ra sông, ra bể uống, uống nhiều thì được nhiều, uống
ít thì được ít.
Thận-Tử
114.-Vui nhất
không gì bằng xem sách ; cần nhất không gì bằng dạy con.
Sử-Điển
(1)
Tâm địa : Tấm lòng, trí khôn, thần hồn của người ta.
115.-Thường được nghe những
câu ngang tai (1), thường gặp phải những việc phật ý (2), cũng là một sự mài
giũa cho người ta được hay.
Hồng-Tự-Thành
(1)
Câu ngang tai : Câu nói thẳng thường khó nghe.
(2)
Việc phật ý : Việc công bằng thường trái ý riêng.
116.-Sĩ phu mà ba ngày không
xem sách, thì soi gương mặt mũi đáng ghét, nói chuyện nhạt nhẽo khó nghe.
Hoàng-Đình-Kiên
117.-Học mà chưa thấy vui
thì chưa gọi là học.
Tư-Mã-Quang
118.-Phú quí mà kiêu ngạo, cố
nhiên là không phải ; học thức mà kiêu ngạo, cái hại cũng khá to.
Trình-Hiệu
119.-Đọc sách hay, là cho
thân ta được ít lỗi.
Lã-Khôn
120.-Học cần nhất là phải biến
hóa khí chất (1).
Tiết-Huyên
(1)
Biến hóa khí chất : Biến đổi tính dở, nết xấu.
121.-Xem nhiều cổ huấn (1),
để cho hay người ; biết nhiều truyện đời, để cho thạo việc.
Hoàng-Sĩ-Ngạn
(1)
Cổ huấn : Lời dạy bảo của người đời trước.
122.-Học giả nên thu liễm (1)
tinh thần : ví như lò lửa, để tụ lại thì vừa nóng, vừa sáng mãi, tải ra thì chóng
tàn.
Hạ-Đông-Nam
(1)
Thu liễm : Thu lại, lượm lại, không để cho tản ra.
123.-Hoc vậy sau mới biết có
lỗi, học kỹ vậy sau mới biết đổi lỗi.
Phan-Nam-San
124.-Trải qua một phen tỏa
triết (1), tăng thêm một phần kiến thức.
Kinh-Viên Tiểu-Ngữ
(1)
Tỏa triết : Ngăn trở đè nén, không để cho như ý.
125.-Nhà phú quí nên học
cách khoan dung, người thông minh nên học thói trung hậu.
Trần-Kế-Nho
126.-Có học vấn mà không có
đạo đức thì là người ác ; có đạo đức mà không có học vấn thì là người quê.
La-Tư-Phúc
127.-Đọc sách mà con mắt
không tinh, thế là vùi dập cái khổ tâm (1) của người đời cổ.
Ngạn-Ngữ
(1)
Khổ tâm : Lo nghĩ lao khổ để làm một việc khó khăn.
128.-Đáng vui mà buồn, đáng
buồn mà vui, đều là táng tâm (1) cả.
Tả-Truyện
(1)
Táng tâm : Mất tính tự nhiên, tính thường, người mà như thế thì dở lắm.
129.-Sự vui sướng của thằng
dại, người khôn lấy làm buồn rầu.
Chiến-Quốc-Sách
131.-Tiếng người không cánh
mà bay xa, tình người không rễ mà bám chặt.
Quân-Tử
132.-Người còn, bụng chết,
còn gì thảm hơn.
Trang-Tử
133.-Vui không gì vui bằng
thích điều lành, khổ không gì bằng nhiều lòng dục (1).
Tố-Thư
(1)
Dục : Ham mê say đắm.
134.-Tính nước vẫn trong,
cát, đá làm bẩn ; tính người vẫn lành, thị dục làm hại.
Văn-Tử
135.-Sự “giận khí huyết” (1)
không nên có ; sự “giận nghĩa lý” (2) không nên không.
Sử-Điển
(1)
Giận khí huyết : Tức, hơi hung hăng xằng một lúc.
(2)
Giận nghĩa lý : Tức giận, bực, căm theo nghĩa phải, theo lẽ công, mà ai ai cũng
lòng như vậy.
136.-Nghe lời chê bai mà giận,
là làm cho người ta gièm pha ; nghe câu khen ngợi mà mừng, là làm cho người ta
nịnh hót.
Văn-Trung-Tử
137.-Lòng giận giỗi tệ hại
vô cùng : bốc lên thì dễ, dẹp đi thì khó.
Trình-Di
138.-Cũng một chữ “tình” đem
dùng cho quốc gia, xã hội, thì hay vô cùng, đem dùng ở chốn nguyệt hoa, thì có
khi thiệt mạng.
Hiệp-Tà-Kính
139.-Hai chữ “lần lữa” đủ hại
một đời.
Cổ-Ngữ
(1)
Lần lữa : Nấn ná nay để mai, mai để ngày kia.
140.-Sĩ phu nên có tấm lòng
lo việc nước, chẳng nên chỉ có lời bàn lo việc nước.
Cấp-Chủng
Chu-Thư
141.-Thói thường người đời rất
hay thay đổi : việc chưa đến, ai ai cũng nói giỏi ; việc đã đến, ai ai cũng
tránh khó ; việc đã xong, ai ai cũng nhận công.
Nhân-Sinh-Tất-Độc-Thư
142.-Kẻ hay hiếu danh, việc
làm thường giả dối.
Lã-Khôn
143.-Ở đời cái gì thung dung
thì còn, mà cấp bách thì mất : việc mà thung dung thì có ý vị, người mà thung
dung thì người sống lâu.
Lã-Khôn
144.-Làm điều thành thật,
thì bụng yên ổn và một ngày một hay ; làm điều gian dối, thì bụng băn khoăn và
một ngày một dở.
Thư-Kinh
145.-Vàng ngọc không quí báu
bằng “Trung Tín” (1).
Lễ-Ký
(1)
Trung : Thật lòng . Tín : Tin, không sai lời.
146.-Chớ tự mình dối mình.
Đại-Học
147.-Người mà không có “tín”
, chẳng biết người ấy làm ra thế nào, mà hay được (người không có tín thì nói dối,
làm càn, đi đâu cũng hỏng).
Luận-Ngữ
148.-Lòng tin nhau nếu chẳng
được lâu bền, thì ăn thề cũng vô ích.
Tả-Truyện
149.-Ai mà vâng liều, hứa liều,
tất nhiên ít khi giữ được đúng.
Lão-Tử
150.-Người miệng nói khôn
khéo quá thì ít thành tín.
Hàn-Thi Ngoại-Truyện
151.-Quân tử xử với người,
còn hết lòng, huống chi tự xử với mình ; tiểu nhân tự xử với mình, còn hay dối,
huống chi xử với người.
Dương-Tử
152.-Có lòng thành thật, mà
không biết quyền biến (1), cũng là một cách nguy vong (2).
Diêm-Thiết-Luận
(1)
Quyền biến : Tùy thời thế mà tạm dùng cơ mưu để cho được việc, hay tránh khỏi
tai hại.
(2)
Nguy vong : Sự hiểm nghèo hay hại thân, hỏng việc.
153.-Vì không thấy mà cứ
không tin, thì cũng như con ve sầu không biết tuyết.
Diêm-Thiết-Luận
154.-Khéo mà dối giá không bằng
vụng mà thật thà.
Thuyết-Uyển
156.-Người mà không trung
tín, không thể đứng được ở đời.
Trình-Di
157.-Một chữ “thành” đủ dùng
để tiêu muôn dối, một chữ “kính” đủ dùng để địch nghìn tà.
Tào-Nguyệt-Xuyên
158.-Đạo của người quân tử,
chẳng gì to bằng đem “trung thành” mà xướng xuất (1) cho cả thiên hạ.
Tăng-Quốc-Phiên
(1)
Xướng xuất : Nói, hay làm trước nhất để cho người ta theo.
159.-Thấy lợi chẳng bỏ
nghĩa, thấy chết chẳng đổi lòng.
Lễ-Ký
160.-Quân tử cố cùng (quân tử
bền gan chịu cảnh khốn cùng, không vì cùng mà làm bậy).
Luận-Ngữ
161.-Giàu sang không thể
đãng được tâm mình, nghèo hèn không thể đổi được tiết mình, uy vũ không thể tỏa
được chí mình.
Mạnh-Tử
162.-Người ta, có chẳng chịu
làm điều dở, vậy sau mới khả dĩ làm được điều hay.
Mạnh-Tử
163.-Bỏ đời người đi, để làm
việc nghĩa.
Mạnh-Tử
164.-Giàu mà luộm thuộm, chẳng
bằng nghèo mà thanh danh ; sống mà nhục, chẳng bằng chết mà vinh.
Lễ-Ký
165.-Sang một mình, giàu một
mình, người quân tử lấy làm xấu hổ.
Lễ-Ký
166.-Chịu nhục để sống ở đời,
người trượng phu lấy làm xấu hổ.
Yên-Đan-Tử
167.-Chí người trượng phu,
càng cùng càng phải kiên gan, càng già càng phải hăng hái.
Mã-Viện
168.-Quan văn không hề tiếc
tiền, quan võ không tiếc mạng, thiên hạ mới được thái bình.
Nhạc-Phi
169.-Đối với việc nước, hết
hơi, hết sức, làm cho đến khi chết mới thôi.
Gia-Cát-Khổng-Minh
170.-Liều thân chẩy (1) nạn
nước, coi chết thoảng như về (2).
Tào-Tử-Kiến
(1)
Chẩy : Đem mình giấn vào.
(2)
Về : Trở lại chỗ cũ. Người ta sống là ở trọ, chết là về quê của mình.
171.-Loạn sinh ra là bởi lời
nói.
Dịch-Kinh
172.-Người hay, ít nói ; người
nông nổi, nhiều lời.
Dịch-Kinh
173.-Câu nói trái ý, tất phải
xem câu ấy có hợp lý không ; câu nói chiều lòng, tất phải xem câu ấy có vô lý
không.
Thư-Kinh
174.-Miệng thường làm cho
người ta xấu hổ.
Thư-Kinh
175.-Bàn việc công, không
nên nói chuyện tư.
Lễ-Ký
176.-Sa chân thì chết đuối,
sẩy miệng thì chết oan.
Lễ-Ký
177.-Chỉ có nói, không có
làm, người quân tử lấy làm xấu hổ.
Lễ-Ký
178.-Nhanh nhẹn việc làm, cẩn
thận câu nói.
Luận-Ngữ
179.-Lúc đáng nói mới nói,
thì người nghe không chán.
Luận-Ngữ
180.-Người đáng nói với, mà
mình không nói, là bỏ hoài người ; người không đáng nói với, mà mình nói là phí
mất lời.
Luận-Ngữ
181.-Nói, phải nghĩ cả đến
làm ; làm, phải nghĩ lại đến nói.
Trung-Dung
182.-Lời nói giản dị mà ý
sâu xa, là lời nói hay.
Mạnh-Tử
183.-Nói lời chớ có nuốt lời.
Công-Dương-Truyện
184.-Việc làm muốn trước người,
lời nói muốn sau người.
Đại-Ký
185.-Lời nói ngọt ngào,
trong tất có cay đắng.
Thân-Sinh
186.-Lời nói hay, giúp người
ấm hơn vải lụa ; lời nói dở, hại người, đau như gươm giáo.
Tuân-Tử
187.-Miệng là cái cửa họa,
phúc.
Quách-Yên
188.-Không biết mà nói là
ngu, biết mà không nói là hiểm.
Chiến-Quốc-Sách
189.-Muốn cho người không
nghe, chẳng gì bằng đừng nói ; muốn cho người không biết, chẳng gì bằng đừng
làm.
Hán-Thư
190.-Chớ nói nhiều, nói nhiều,
lỗi nhiều.
Gia-Ngữ
191.-Thuốc hay đắng miệng,
dã được tật ; nói thật trái tai, lợi việc làm.
Gia-Ngữ
192.-Suốt đời làm lành, một
câu bạc ác đủ đổ đi cả.
Gia-Ngữ
193.-Quân tử nói bằng việc
làm, tiểu nhân nói bằng ngọn lưỡi.
Gia-Ngữ
194.-“Câu nói” không nói ra,
nghe lại to hơn tiếng trống, ran hơn tiếng sấm.
Quản-Tử
195.-Tặng một câu hay, quí
hơn tặng vàng ngọc, châu báu.
Tuân-Tử
196.-Chim mà mỏ quắp thì
loài chim sợ ; cá mà miệng ngoáp thì loài cá sợ ; người mà miệng lưỡi sắc sảo
thì loài người sợ.
Hàn-Thi Ngoại-Truyện
197.-Lời nói đáng tin thì giọng
không đẹp, lời nói giọng đẹp thì không đáng tin.
Lão-Tử
Lão-Tử
198.-Hai bên cùng mừng, hay
khen ngợi quá đáng ; hai bên cùng giận, hay bêu giếu đặt điều.
Trang-Tử
199.-Trí khôn muốn cho tròn,
việc làm muốn cho góc gách.
Hoài-Nam-Tử
200.-Người quân tử chẳng sợ
cọp, chỉ sợ miệng kẻ gièm pha.
Luận-Hành
201.-Không nên mưu việc lớn
với kẻ đa ngôn (1) ; không nên ở chung lâu với người hiếu động (2).
Văn-Trung-Tử
(1)
Đa ngôn : Nói nhiều, thường hay lộ chuyện.
(2)
Hiếu động : Không ở yên, hay sinh sự.
202.-Việc làm được trước mặt
mọi người thì hãy nói ; câu nói được trước mặt mọi người thì hãy làm.
Sử-Điển
203.-Bệnh theo miệng mà vào,
vạ tự miệng mà ra.
Phó-Dịch
204.-Biết được làm là khó,
thì nói không nhẹ miệng.
Chu-Hi
205.-Đương khi vui mừng, chớ
có nói nhiều ; đương khi đắc chí (1), chớ có thay đổi công việc.
Chu-Hi
(1)
Đắc chí : Thỏa lòng ao ước, được như ý nguyện.
206.-Kẻ hay giỏi nghị luận
người, thường quên mình không xét đến.
Trương-Thức
207.-Việc gì không thể đối
người nói được thì đừng làm ; việc gì không thể cùng người làm được thì đừng
nói.
Triệu-Biện
208.-Tâm không bình, khí
không hòa, thì nói hay nhầm lỗi.
Hứa-Hành
209.Biết, phải biết cho suốt
; làm, phải làm cho đến nơi.
Trương-Tĩnh-Phong
210.-Nghìn lời nói, muôn câu
chuyện cốt ở sự thật.
Tiết-Huyên
211.-Lời nói như tên, không
nên bắn bậy, đã lọt vào tai ai, thì không tài nào rút ra được nữa.
Lục-Tài-Tử
212.-Lời nói mà giản dị, vừa
phải, thì ta ít khi hối, mà người ít khi oán.
Viên-Thị-Thế-Phạm
213.-Khi xong việc mới nghị
luận, đứng ngoài cuộc mà phẩm bình, là cái nết xấu của kẻ học giả.
Ngụy-Hy
214.-Đương lúc thích chí, gặp
người thích chí, nói chuyện thích chí, thì ngôn ngữ lạ càng phải cẩn thận lắm.
Lưu-Trấp-Sơn
215.-Việc làm nên trước mọi
người, câu nói nên sau mọi người.
Lã-Khôn
216.-Làm việc nghĩa thì chớ
tính lợi hại ; luận anh hùng thì chớ kể nên thua.
Lã-Khôn
217.-Ngôn ngữ ác nhất là đặt
điều, nói không.
Lã-Khôn
218.-Gièm phai, mai mỉa là một
chứng xấu nhất ở đời.
Lã-Khôn
219.-Nói chuyện chớ châm chọc
để người ta buốt ; nói đùa chớ cạnh khóe để người ta đau.
Lục-Lũng-Kỳ
220.-Đại cục tuy một ngày một
bại hoại, chúng ta vẫn phải nên hết sức duy trì, được phần nào hay phần ấy, còn
ngày nào hay ngày ấy.
Tăng-Quốc-Phiên
(Nhầm Lỗi)
221.-Thấy phải thời theo, có
lỗi thời đổi.
Dịch-Kinh
222.-Chớ xấu hổ có lỗi, mà lại
làm càn.
Thư-Kinh
223.-Có lỗi mà chẳng đổi, thế
thật là có lỗi.
Luận-Ngữ
224.-Có lỗi đổi được, còn gì
hay hơn.
Tả-Truyện
225.-Người ta thường có lỗi,
vậy sau mới hay đổi.
Mạnh-Tử
226.-Người ta khổ vì không
biết cái lỗi của mình.
Dương-Thái-Tôn
227.-Cái lỗi cốt ý làm, là lỗi
lớn ; lỗi vô ý nhỡ là lỗi nhỏ.
Đường-Bưu
228.-Có lỗi mà chẳng đổi, gọi
là kẻ mất hết lương tâm.
Trung-Luận
229.-Không gì dở bằng “Ghét
nghe điều nhầm lỗi của mình”.
Úy-Liệu-Tử
230.-Nói đương sướng hả mà
nín ngay được ; ý đương hớn hở mà thu hẳn được ; tức, giận, ham mê đương sôi nổi,
nồng nàn mà tiêu trừ biến mất được ; không phải người kiên nhẫn, thì không tài
nào được như thế.
Vương-Thủ-Nhân
231.-Có lỗi đã là một điều lỗi,
không chịu nhận lỗi, lại là một điều lỗi nữa.
Lã-Khôn
232.-Kẻ khoe cái hay của
mình là xấu ; kẻ nhặt nhạnh cái hay của người làm của mình, lại càng xấu nữa ;
kẻ lấy hẳn cái hay của người làm của mình, lại càng xấu lắm nữa.
Lã-Khôn
233.-Lúc giàu chẳng sẻn, lúc
nghèo mới hối ; lúc rỗi chẳng học, lúc làm mới hối ; lúc thường chẳng giữ gìn,
lúc ốm mới hối.
Cổ-Ngữ
234.-Điều dưỡng cái “khí”
lúc đang giận ; đề phòng “câu nói” lúc sướng mồm ; lưu tâm sự “nhầm” lúc bối rối
; biết dùng “đồng tiền” lúc sẵn sàng
Uông-Thụ-Chi
235.-Dưỡng sinh không gì hay
bằng ít lòng ham muốn, say mê.
Mạnh-Tử
236.-Tinh thần dùng quá thời
kiệt, hình thể làm quá thời mệt.
Tư-Mã-Thiên
237.-Người khéo nuôi thân,
không cần phải cao lương.
Diêm-Thiết-Luận
238.-Bệnh vừa mới bớt, phải
lại nhiều khi nặng thêm.
Hàn-Thi-Ngoại-Truyện
239.-Đói mà cho ăn của độc,
thì thật là giết người.
Hà-Xưởng
240.-Ai cũng muốn sống lâu,
mà không biết cách dưỡng sinh. Ai cũng biết ăn uống quá độ thì ốm đau, mà không
biết giữ miệng. Ai cũng biết tình dục quá độ thì khô héo mà không biết phòng
thân.
Bão-Phác-Tử
241.-Thầy thuốc giỏi, dặn
cách ăn nằm trước, rồi cho thuốc thang sau.
Văn-Trung-Tử
242.-Người khôn ngoan không
đợi ốm mới chữa, chữa khi chưa ốm.
Tô-Vấn
243.-Vạ tự miệng mà chui ra,
bệnh theo miệng mà chui vào.
Phó-Rịch
244.-Người ta đến lúc già yếu
mới vệ sinh, thì khác nào đến lúc nghèo khổ mới dành dụm, tuy chăm chỉ cũng
không ích gì.
Trình-Hiệu
245.-Tinh thần không vận dụng
thời ngu, khí huyết không chuyển vận thời ốm.
Lục-Tượng-Sơn.
246.-Buổi sáng dậy sớm, thật
tốt vô cùng.
Kinh-Viên-Tiểu-Ngữ
247.-Thường làm lấy những việc
vặt, thì khỏe mạnh người.
Kinh-Viên-Tiểu-Ngữ
248.-Bớt lo, bớt sầu, đừng
phiền, đừng não, là một cách làm cho tâm ta bớt được nhiều bệnh.
Nguyện-Thể-Tập
249.-Ít sắc dục để nuôi
“tinh” (1), ít ngôn ngữ để nuôi “khí” (2), ít tư lự để nuôi “thần” (3).
Tuân-Sinh-Tiên
(1)
Tinh : Tâm tính thiêng liêng trong thân người.
(2)
Khí : Hơi thở ra thở vào.
(3)
Thần : Tinh, khí trong thân người
250.-Muốn cho thân không có
bệnh, trước hết phải để tâm không có bệnh.
Tuân-Sinh-Tiên
251.-Yêu con mà yêu một cách
ngon ngọt, là làm cho con hại thân (1) ; thương con mà thương một cách cô tức
(2), là làm cho con bại đức (3).
Lã-Khôn
(1)
Hại thân : Hao mòn thân thể sinh ra bệnh tật.
(2)
Cô tức : Cẩu thả nôm tạm, không làm đến nơi đến chốn.
(3)
Bại đức : Hư hỏng cả tính nết.
252.-Những cách làm cho sống
lâu : Từ, Kiệm, Hòa, Tĩnh.
Cổ-Ngữ
(1)
Từ : Nhân đức phúc hậu .
(2)
Kiệm : Chừng mực.
(3)
Hòa : Vui vẻ, êm ái.
(4)
Tĩnh : Im lặng không nóng nảy.
253.-Thân mình như hòn ngọc
trắng, hễ cầm sẩy tay là vỡ tan.
Cao-Phan-Long
254.-Rỗi rãi ở nhưng luôn,
thời thân thể lệt bệt, tâm chí cùn mằn.
Hồ-Lâm-Giực
255.-Rượu là thứ thuốc độc
nát ruột, gái là con dao thép cắt xương.
Cổ-Huấn
Chương Thứ Hai
Đối với gia tộc
256.-Ngựa què làm đổ xe, đàn
bà ác nghiệt làm tan nhà, nát cửa.
Dịch-Vĩ
257.-Chẳng lo hiếm người, chỉ
lo cái “phận” kẻ trên, người dưới không phân minh ; chẳng lo thiếu của, chỉ lo
cái “lòng” kẻ trên, người dưới không hòa thuận.
Luận-Ngữ
258.-Trong nhà không thu xếp
cho hòa thuận, mà đi kể truyện với láng giềng, thì chưa gọi là phải được.
Chiến-Quốc-Sách
259.-Những nhà tích đức (1),
quyết nhiên không có tai ương.
Tân-Ngữ
(1)
Tích đức : Làm nhiều điều thiện.
260.-Lấy vợ, lấy chồng mà cứ
kể đến đồng tiền thì thật là mọi rợ.
Văn-Trung-Tử
261.-Dạy vợ khi mới về, dạy
con khi còn nhỏ.
Nhan-Thị-Gia-Huấn
262.-Chăm chỉ học hành là
cái gốc để gây nhà, ăn nói lễ phép là cái gốc để giữ nhà, cư xử hòa thuận là
cái gốc để trị nhà.
Chu-Hi
263.-Cần kiệm là điều cốt yếu
trị gia (1), học hành là điều cốt yếu để khởi gia (2), hòa thuận là điều cốt yếu
để tề gia (3), làm theo công lý là điều cốt yếu để bảo gia (4).
Chu-Hi
(1)
Trị gia : Quản trị việc nhà.
(2)
Khởi gia : Gây dựng cơ đồ (của nhà cơ nghiệp).
(3)
Tề gia : Chỉnh lý trong nhà cho có trật tự.
(4)
Bảo gia : Giữ cho nhà được thịnh vượng lâu dài.
264.-Cách trị nhà cốt ở
“hòa”, cách mưu sinh (1) cốt ở “chăm”.
Chu-Hi
(1)
Mưu sinh : Kiếm ăn để nuôi thân, nuôi nhà.
265.-Nhà thịnh hay suy,
không tại giàu sang hay nghèo hèn, chỉ tại có lễ nghĩa, hay không có lễ nghĩa.
Lục-Cửu-Uyên.
266.-Rất vui không gì bằng
xem sách, rất cần không gì bằng dạy con.
Sử-Điển-Nguyện-Thể-Tập
267.-Lúc có tiền nên nghĩ đến
ngày không có tiền ; chớ để đến ngày không có tiền, mới nhớ lại đến lúc có tiền.
Cổ-Ngữ
268.-Trị nhà kiêng nhất là
xa xỉ, thứ nhì là biển lận.
Nghê-Tư
269.-Cư xử trong nhà không
gì hay bằng “nghĩa”, không gì quí bằng “nhẫn”.
Tiết-Tư-Am
(1)
Nghĩa : Điều phải, ở thẳng để chữa những sự chênh lệch cho được phân minh.
(2)
Nhẫn : Nhường, nhịn, dong thứ cho được êm thấm.
270.-Xử công việc nhà, nên
khoan thai công minh cho đâu ra đấy, thì việc không rối, mà người nhà không ai
oán, cũng không ai nói dối được.
Ngụy-Hy
271.-Thương yêu con em mà
không dạy cho biết nghĩa lý, giữ chức phận ; tuy của có nhiều, chúng lại càng
hoang dâm, tuy học hay chữ, chúng lại càng gian trá.
Trình-Hán-Thư
272.-Chính thân mình không
có qui củ (1), thì chỉnh lý thế nào được một nhà.
Trình-Hán-Thư
(1)
Qui : Thước tròn ; Củ : Thước vuông ; nghĩa là ở cho tròn, làm cho thẳng.
273.-Người gia trưởng (1) tức
là cái gương cho cả nhà soi : phải thành thật, phải công minh, phải cần mẫn, phải
tiết kiệm.
Sử-Điển-Nguyện-Thể-Tập
(1)
Người chủ trương của một gia tộc.
274.-Tâm thuật chớ để đắc tội
(1) với giời đất ; ngôn, hành cần làm khuôn phép cho con em.
Cổ-Ngữ
(1)
Đắc tội : Phải tội.
(Hiếu thảo,
thân yêu)
275.-Dậy sớm, thức khuya,
nghĩ làm sao không để nhục đến cha mẹ.
Thư-Kinh
276.-Người mà cha mẹ yêu, ta
cũng phải yêu ; người mà cha mẹ kính, ta cũng phải kính.
Lễ-Ký
277.-Chớ để nhục đến thân
mình, chớ làm xấu cho cha mẹ.
Lễ-Ký
278.-Ở nhà thì hiếu thảo với
cha mẹ, ra ngoài thì kính thuận với người trên.
Luận-Ngữ
279.-Cha mẹ như có lỗi, phải
dịu dàng hòa nhã, liệu lời can ngăn.
Luận-Ngữ
280.-Con ăn ở với cha mẹ, việc
phụng dưỡng cần phải có, mà lòng tôn kính cần phải có hơn.
Luận-Ngữ
281.-Không thừa thuận để vui
lòng cha mẹ, không đáng gọi là người ; không cảm động để làm hay cho cha mẹ,
không đáng gọi là con.
Mạnh-Tử
282.-Người con đại hiếu, suốt
đời mến cha mẹ.
Mạnh-Tử
283.-Trong gia đình mà người
trung (1), chẳng dạy dỗ kẻ bất trung, người tài chẳng trông nom kẻ bất tài, thì
kẻ hay, người dở cũng chả khác nhau mấy.
Mạnh-Tử
(1)
Trung : Đứng đắn, công minh, người hay và giỏi.
284.-Kẻ biết làm con, vậy
sau mới biết làm cha.
Gia-Ngữ
285.-Cây muốn lặng, gió chẳng
đừng ; con muốn nuôi, cha mẹ đã khuất.
Gia-Ngữ
286.-Anh em liên can với
nhau như là tay phải với tay trái.
Thiệu-Tục
287.-Thế gian rất khó được
là anh em.
Tô-Quỳnh
288.-Người hiếu lắm, nuôi
chí cha mẹ, người hiếu vừa, nuôi thân thể cha mẹ.
Ý-Lâm
289.-Cha con cùng lòng thì đất
cũng hóa ra vàng, anh em cùng sức thì đá cũng thành ra ngọc.
Cổ-Ngạn
290.-Con nhà tử tế, cha giận,
sợ ít ; cha không nói, lại sợ nhiều.
Cổ-Ngữ
291.-Con ăn ở với cha mẹ, cốt
nhất nuôi “tâm” (1) người, thứ nhì nuôi “thân” (2) người ; nuôi thân mà không
nuôi tâm là kém lắm ; ăn ở chỉ văn vẻ bề ngoài, mà chẳng nghĩ đến thân người, lại
là kém quá lắm nữa.
Lã-Khôn
(1)
Nuôi tâm : Thừa thuận cái chí của cha mẹ mà làm cho người vui lòng, bằng lòng.
(2)
Nuôi thân : Nuôi thân thể người cho được no ấm, yên ổn.
292.-Người ta không kỳ loài
giống nào, đều có thể dạy được cả.
Luận-Ngữ
293.-Ăn no, mặc ấm, ở rỗi,
mà không có dạy dỗ, thời gần như giống vật.
Mạnh-Tử
294.-Để cho con một hòm vàng,
không bằng dạy cho con một quyển sách.
Vi-Hiền-Truyện
295.-Đem việc làm dạy người
ta thì người ta theo ; chỉ đem lời mà dạy người ta thì người ta không phục.
Dệ-Ngũ-Luân
296.-Người mẹ lành quá, hay
có con hư.
Diêm-Thiết-Luận
297.-Sửa điều dở cho ai chớ
nghiêm khắc quá ; dạy điều hay cho ai, chớ cao xa quá.
Sử-Điển
298.-Người ta ngu đến đâu
cũng dạy được, mà khôn đến đâu cũng phải dạy.
Trần-Hoành-Mưu
299.-Chồng sợ vợ cố nhiên là
ngu, nhưng vợ mà không biết sợ chồng, lại là hạng ngu quá.
Cổ-Huấn
300.-Nuôi con mà không dạy,
là gây một đàn trộm cướp.
Vô-Danh
301.-Những nhà ăn ở đời đời
giàu sang, ít nhà ăn ở có lễ độ.
Thư-Kinh
302.-Người ta có lễ độ thời
yên, không lễ độ thời nguy.
Lễ-Ký
303.-Người ta khác giống cầm
thú, vì rằng có lễ.
Lễ-Ký
304.-Người ta giàu sang mà
biết lễ, thời không kiêu ngạo, không hoang dâm ; người nghèo hèn mà biết lễ thời
chí mới hăng hái.
Lễ-Ký
305.-Tự xử nghiêm trang mà
việc làm thời giản dị.
Luận-Ngữ
306.-Nhả quá hóa nhờn,
nghiêm quá thì không ai thân.
Gia-Ngữ
307.-Ai mà tự kính, thời người
ngoài mới kính ; ai mà tự khinh, thời người ngoài cũng khinh.
Chu-Hi
308.-Làm người không nên có
“bộ dạng khinh người, nhưng cũng chẳng nên không có “cốt cách khinh đời” (không
nên khinh người, song nên biết khinh người dở, sự dở).
Lục-Lũng-Kỳ
(Chăm chỉ,
trễ biếng)
309.-Có siêng năng thì sự
nghiệp mới to.
Thư-Kinh
310.-“Biết”, không phải là
khó ; “làm” mới là khó.
Thư-Kinh
311.-Đường dài trăm dặm, tuy
đi được chín mươi, song mới là một nửa (Thói thường làm ăn, trước thì chăm, sau
thì lười, cho nên công việc mười phần được chín mà vẫn hay hỏng ; người ta cũng
vậy, thường trước hay sau dở ; cho nên càng về sau càng cần, mẫn, trì thủ thì mới
hay).
Chiến-Quốc-Sách
312.-Dịp may có được mà dễ mất.
Tề-Thái-Công
313.-Dòng nước chảy luôn thì
không thối, then cửa đẩy luôn thì không mọt.
Lã-Thị-Xuân-Thu
314.-Đường tuy gần, chẳng đi
chẳng đến ; việc tuy nhỏ, chẳng làm chẳng nên.
Tuân-Tử
315.-Rỗi quen thành lười, lười
quen thành bệnh.
Nhan-Thị-Gia-Huấn
316.-Việc đời vì khó mà bỏ,
mười việc độ một việc ; vì lười mà bỏ, mười việc đến chín việc.
Nhan-Thị-Gia-Huấn
317.-Ở đời chẳng có việc gì
khó nhọc mà làm nên.
Văn-Trung-Tử
318.-Người ăn dưng, ở rỗi là
người bỏ đi.
Hồ-Thanh-Phủ
319.-Tấc bóng là tấc vàng,
có tấc vàng khó mua được tấc bóng.
Cổ-Thi
320.-Chăm chỉ là thuốc chữa
“lười”, cẩn thận là thuốc chữa “kiêu”.
Tăng-Quốc-Phiên
321.-Chăm thời tuy yếu cũng
phải mạnh, tuy ngu cũng phải sáng.
Tăng-Quốc-Phiên
322.-Tập quen khó nhọc là cốt
để sau này gánh vác việc đời.
Tăng-Quốc-Phiên
323.-Cái lười sinh đủ mọi nết
xấu.
Tăng-Quốc-Phiên
324.-Tinh thần càng dùng
càng nẩy ra, không nên nhân tinh thần mỏi mệt mà quá yêu tiếc.
Tăng-Quốc-Phiên
(Xa hoa, tần
tiện)
325.-Xả xỉ thì việc gì cũng
quá lạm, hà tiện thì việc gì cũng quê mùa.
Luận-Ngữ
326.-Cả nước xa xỉ, thì dạy
nước lấy tiết kiệm ; cả nước tần tiện, thì dạy nước lấy lễ nghi.
Lễ-Ký
327.-Cái hại xa xỉ quá là
thiên tai (1).
Tấn-Thư
(1)
Thiên tai : Tai hại giời làm, như lụt, bão, đại hạn mất mùa, tật dịch .v,v…
328.-Kẻ xa xỉ, thì giàu mà
tiêu vẫn không đủ ; kẻ kiệm ước, thì nghèo mà tiêu vẫn có thừa.
Đàm-Tử
329.-Ai mà tự phụng (1) có
tiết độ (2), thì không sinh lòng tham.
Văn-Trung-Tử
(1)
Tự phụng : Ăn mặc tiêu dùng cho thân mình.
(2)
Tiết độ : Chừng mực, có hạn chế.
330.-Tiết kiệm, chất phác, đều
là đức tốt của người ta.
Trình-Di
331.-Người mà chịu khổ, ăn
rau là ngon, việc gì làm chả nổi.
Uông-Cách
332.-Biển lận với kiệm ước
khác nhau xa ; bủn gọi là biển lận, tần tiện gọi là kiệm ước.
Uông-Cách
333.-Có kiệm ước mới thanh
liêm.
Phạm-Thuần-Nhân
334.-Người nào tự phụng xa xỉ
thì họ càng ít khi được nhờ.
Trần-Cơ-Đình
335.-Thường lo không đủ thì
tự nhiên có thừa.
Ngụy-Tế-Thụy
336.-Việc đáng bớt tiêu, mà
không bớt tiêu, tất đến việc nên tiêu, lại không chịu tiêu.
Ngụy-Hy
337.-Ở thời loạn, lại càng
không nên xa xỉ lắm.
Tăng-Quốc-Phiên
338.-Kẻ hay kiệm ước không
phải lụy người.
Tăng-Quốc-Phiên
(Nhân đức,
thương yêu)
339.-Người quân tử yêu ai,
hay dùng cách phải ; người thường yêu ai, hay dùng cách cẩu thả, nộm tạm.
Lễ-Ký
340.-Yêu con sâu xa, thì phải
bắt con cần lao (1) mới được.
Luận-Ngữ
(1)
Cần lao : Chăm chỉ làm ăn.
341.-Kính ông già ta, đến cả
ông già người ; yêu con trẻ ta, đến cả con trẻ người.
Mạnh-Tử
342.-Người quân tử rất ghét
việc làm hại đồng loại.
Gia-Ngữ
343.-Ăn quả cây nào, chớ bể
kềnh cây ấy.
Hoài-Nam-Tử
344.-Giời không phải cho
riêng một người giàu, ý trời muốn ký thác (1) những kẻ nghèo cho người ấy ; giời
không phải cho riêng một người sang, ý giời muốn ký thác những kẻ hèn cho người
ấy.
Sử-Điển.
(1)
Ký thác : Nhờ cậy ủy thác ai làm việc gì.
345.-Có yêu người, vậy sau mới
giữ được thân.
Trương-Tái
346.-Việc tốt nhất trên thế
gian, không gì bằng cứu người nguy cấp, thương kẻ khốn cùng.
Cổ-Ngữ
347.-Biết người ta dối,
không thèm nói ra mồm ; phải người ta khinh, không thèm giận ra mặt ; như thế
thì có ý vị (1) vô cùng, và thụ dụng (2) vô cùng.
Súc-Đức-Lục
(1)
Ý vị : Thuần nhị vui thú.
(2)
Thụ dụng : Được hưởng nhiều sự sung sướng về sau.
348.-Giời đâu cũng che, cho
nên có tiếng là cao ; đất đâu cũng chở, cho nên có tiếng là rộng ; mặt trời, mặt
trăng, chỗ nào cũng soi, cho nên có tiếng là sáng; sông, bể cái gì cũng dong nạp
(1), cho nên có tiếng là lớn.
Tào-Thực
(1)
Dong nạp : Nhận lấy, hứng đựng lấy.
349.-Cùng người ta, mà còn
có ý so hơn, quản thiệt, thế là trong tâm vẫn còn cặn bã, chưa tiêu trừ hết.
Tiết-Huyên
350.-Nhịn điều người ta
không nhịn được, dong điều người ta không dong được, chỉ có người nào kiến thức,
độ lượng hơn người, mới được như thế.
Trình-Di
351.-Đại trượng phu nên dong
người, chớ để người dong.
Chu-Hi
352.-Khí độ hẹp hòi là cái bệnh
rất to của kẻ học giả.
Lã-Khôn
353.-Bo bo cùng người, tranh
nhau phải trái, như thế thì độ lượng mình cùng độ
lượng người, khác nhau được
là bao nhiêu.
Lã-Khôn
354.-Vật gì trông qua biết
ngay, thì kỳ trung không có gì cả.
Tăng-Quốc-Phiên
(1)
Kỳ trung : Bên trong cái ấy.
355.-Người ta nếu không nghĩ
xa, thì không bao lâu, thế nào cũng có những sự ưu hoạn khốn khó.
Luận-Ngữ
356.-Hay nói xấu người, khi
xảy ra có vạ miệng, thì tính là sao ?
Mạnh-Tử
357.-Môi hở răng lạnh.
Tả-Truyện
358.-Sa ngã xuống nước, còn
thể bơi được, đắm đuối với ai, không thể cứu được.
Đại-Ký
359.-Lỗ kiến vỡ đê, tí lửa
cháy đồi.
Hậu-Hán-Thư
360.-Người ta đều biết phòng
họa hoạn, ít người biết làm cho họa hoạn đừng có sinh ra.
Lão-Tử
361.-Chim sẻ làm tổ đầu nhà,
mẹ con hú hí, tự lấy làm yên ; nhà cháy mà chim vẫn như không, là tại không biết
tai vạ sắp đến.
Không-Tòng-Tử
362.-Hổ, báo ở đằng sau, đằng
trước tuy có châu báu, cũng không kịp nhặt, là có ý tránh họa hoạn trước, còn lợi
để lại sau.
Hoài-Nam-Tử
363.-Con voi vì ngà, ve sầu
vì tiếng, đom đóm vì sáng, mà đều hại thân ; cho nên người biết yêu thân, không
quí gì tiếng tăm rực rỡ.
Lã-Ngữ-Tập-Túy
364.-Cái tường thấp hay mời
kẻ trộm đến
Thi-Tử
365.-Chớ khinh việc nhỏ, lỗ
thủng còn đủ đắm thuyền ; chớ khinh vật nhỏ, con sâu con cũng đủ hại người.
Quan-Roãn-Tử
366.-Giữ thân nên như phòng
giặc.(Thân không giữ gìn thì hư, như giặc, không phòng thì bị tràn đến).
Trinh-Thiện-Phu
367.-Nên đương lúc có, nghĩ
đến lúc không ; chớ đến lúc không, mới tưởng lại lúc có.
Ngạn-Ngữ
Chương
Thứ Ba
Đối với nhân quần, xã hội
368.-Phải có nhẫn nại (1),
công việc mới xong.
Thư-Kinh
(1)
Nhẫn nại : Chịu khổ, bền chí, không chán nản, không ngã lòng.
369.-Việc có dự trước thì
làm mới nên.
Trung-Dung
370.-Nóng nẩy muốn chóng việc
thì không xong ; ham mê lợi nhỏ thì hỏng việc lớn.
Luận-Ngữ
371.-Nhân đức vặt, khí khái
xằng, thường làm hại công việc lớn.
Luận-Ngữ
372.-Roi tuy dài, không đánh
tới bụng ngựa.( Quyền thế tuy mạnh cũng không trị đến được).
Tả-Truyện
373.-Người quân tử chăm biết
việc lớn, việc xa ; kẻ tiểu nhân chăm biết việc nhỏ, việc gần.
Tả-Truyện
374.-Kéo chưa biết cầm, mà
sai cắt áo, thì thiệt hại to.
Tả-Truyện
375.-Người “trí” hay lo, người
“nghĩa” hay làm, người “nhân” hay trì thủ.
Cốc-Lương
376.-Việc gì mà công chúng
đang giận, thì chớ phạm đến ; việc gì mà riêng mình ham muốn, thì khó làm nên.
Tử-Sản
377.-Lấp nước không lấp tự
nguồn, tất nước lại chảy ; chặt cây không chặt từ gốc, tất cây lại nảy mầm.
Sử-Tô
378.-Ôm củi di chữa cháy, củi
chưa cháy hết thì lửa vẫn chưa tàn.
Chiến-Quốc-Sách
379.-Không lòng báo thù, mà
để cho người ta ngờ là báo thù, thì nguy ; có lòng báo thù mà để cho người ta
biết là báo thù thì vụng.
Tô-Đại
380.-Người đi đêm, tuy không
là gian, nhưng không thể cấm chó không cắn được.
Chiến-Quốc-Sách
381.-Việc đời có việc không
nên biết, có việc không nên không biết ; có việc không nên quên, có việc không
nên không quên.
Đường-Tuy
382.-Cả nghe thì sinh dở, tự
phụ thì hỏng việc.
Châu-Dương
Liệt-Truyện
(1) Tự phụ : Cậy mình tài giỏi.
383.-Việc đáng làm thẳng tay
mà không làm thẳng tay, thì thường lại bị hại.
Hán-Thư
384.-Cứng quá thì gãy, mềm
quá thì oặt.
Tuấn-Bất-Nghi Truyện
385.-Trăm lần nghe, không bằng
một lần trông thấy.
Triệu-Sung-Quốc Truyện
386.-Gỡ chỉ rối, không nên
nóng nảy.
Cung-Toại Truyện
387.-Lấy cái dây rất nhỏ, buộc
vào vật rất nặng, treo lên chỗ cao lưng chừng, rủ xuống vực sâu vô hạn, tuy người
ngu cũng biết phàn nàn rằng sắp đứt.
Mai-Tặng Truyện
388.-Người lòa cưỡi ngựa mù,
nửa đêm đi ra ao sâu.
Thế-Thuyết
389.-Có khó nhọc một phen, mới
được lâu dài rỗi rãi.
Dương-Hùng
390.-Nước đã đánh đổ, sau hốt
không được ; việc đã để hỏng, sau hốt không kịp.
Mã-Vũ
391.-Làm nhà bên đường, gặp
ai cũng bàn, thì ba năm không xong.
Tào-Bao Truyện
392.-Sai một li, đi nghìn dặm.
Hậu-Hán-Thư
393.-Nền không chắc mà tường
cao, là sự bại hoại nằm sẵn ở đó.
Hậu-Hán-Thư
394.-Khuấy nước sôi cho khỏi
reo, không bằng rút củi cho bớt lửa.
Hậu-Hán-Thư
395.-Đã nuôi cọp, phải cho
ăn thịt no, không thì bị nó sửa mất.
Lã-Bố Truyện
396.-Việc đời thường không
được như ý, mười việc thường đến tám, chín việc.
Dương-Hỗ
397.-Chẳng quí một thước ngọc,
mà trọng một tấc quang âm (1).
Hoài-Nam-Tử
(1)
Quang Âm : Ánh sáng, tức là thì giờ.
398.-Đá giũa ngọc, muối đánh
vàng, vật có nhiều thứ tầm thường mà làm tốt được cho thứ quý báu.
Tiềm-Phu
399.-Ai trồng đào, mận, mùa
hè có bóng mát mẻ, mùa thu lại được quả ngon ; ai trồng tật-lê, mùa hè không chỗ
nghỉ ngơi, mùa thu lại phải gai góc.
Thuyết-Uyển
400.-Nghĩ sâu, tính xa, thì
không cùng khốn.
Tố-Thư
401.-Thấy gì quái gở, không
cho là quái gở, thì quái gở ấy tự nhiên lui.
Nghệ-Văn-Loại-Tụ
402.-Kỵ nhau còn gì bằng nước
với lửa, thế mà khéo dùng, đem lửa đun nước, thì được bao nhiêu là việc.
Phó-Tử Giả
Ngôn
403.-Đem xương trừ kiến, kiến
lại càng nhiều ; lấy cá đuổi ruồi, ruồi lại càng đến.
Hàn-Phi-Tử
404.-Việc làm kín đáo thì mới
nên, câu truyện tiết lộ thì hay hỏng.
Hàn-Phi-Tử
405.-Việc làm trái nhẽ mà muốn
xong, khác nào cầm ngược quần mà tìm cạp.
Đặng-Tích-Tử
406.-Chẳng nên bới lông mà
tìm vết.
Hàn-Phi-Tử
407.-Nhà cháy, người đến chữa
thì ơn ; những bậc già cả bảo dọn củi, giữ bếp được suốt đời không hỏa hoạn thì
lại không ơn đến.
Thi-Tử
408.-Không có gì giỏi bằng
hay bàn, không gì yên bằng hay nhẫn, không gì hơn người bằng có đức, không gì
sướng thân bằng làm lành.
Hoàng-Thạch-Công
409.-Thiên hạ vốn không có
việc gì, chỉ tại đám người tầm thường hay sinh sự quấy rối.
Lục-Tượng-Tiên
410.-Việc đời, người nghe thấy,
không bằng người trông thấy biết rõ hơn, người trông thấy không bằng người ở đấy
biết tường tận hơn.
Lục-Du
411.-Việc tất đến thế, lý phải
thế, chỉ có người trầm tĩnh mới trông thấy trước và biết rõ ràng.
Tô-Tuân
412.-Phàm việc để tâm lo sợ
thì hay nên, khinh thường thì hay hỏng.
Lã-Tổ-Khiêm
413.-Người khôn lo việc :
không lo việc một ngày, thường lo việc trăm năm.
Tạ-Kim
414.-Người đại trượng phu
đau lòng việc nước, nên thung dung, trầm tĩnh, để mà lo toan.
Lục-Triều-Sử-Luân
415.-Không có việc, chớ nên
sinh vệc ; có việc, chớ nên sợ việc.
Tôn-Hạ-Phong
416.-Làm việc vô ích để cầu
phúc, không bằng làm việc có ích để cứu người.
Lục-Thế-Nghi
417.-Xưa nay những bậc anh
hùng, chỉ vì không chịu thiệt, mà hại bao nhiêu công việc to.
Lâm-Thoái-Trai
418.-Kẻ tính hay hồ nghi, chớ
cùng lo toan việc lớn.
Kinh-Viên Tiểu
Ngữ
419.-Xử những việc khó xử
càng nên khoan dong ; xử người khó xử, càng nên trung hậu ; xử thời buổi khó
khăn, ngờ vực, càng nên tự nhiên như vô tâm.
Lý-Tiêu-Viễn
420.-Cái thói viêm lương
(1), kẻ phú quí lại tệ hơn kẻ bần tiện ; cái lòng đố kỵ (2), người thân thích lại
tệ hơn người dưng. Nếu không coi bằng mắt lạnh nhạt, xử bằng khí hòa bình thì
thật là ngày ngày ngồi trong màn phiền não (3).
Trần-Cấp-Sơn
(1)
Viêm lương : Nóng, lạnh, thấy thịnh vượng thì vồ vập, thấy suy đồi thì tránh
xa.
(2)
Đố kị : Ghen ghét.
(3)
Màn phiền não : Nơi buồn bực khổ sở.
421.-Chớ đem lòng ham mê,
say đắm mà tự mình giết mình ; chớ đem tiền của bất nghĩa mà giết con cháu ; chớ
đem chính sự ác mà giết dân ; chớ đem học thuật xằng mà giết thiên hạ, hậu thế.
Lưu-Cao
422.-Tưởng rằng không có việc,
tất là có việc ; sợ rằng có việc, tất là không có việc.
Nhân-Sinh Tất
Độc Thư
423.-Việc không yên tâm chẳng
nên làm, việc trái nhẽ phải chẳng nên làm, việc gây oan nghiệt chẳng nên làm,
việc hại người ta chẳng nên làm.
Nhân-Sinh Tất
Độc Thư
424.-Người khôn chẳng đánh
nhau với thiên mệnh (1), chẳng đánh nhau với công lý (2).
Trần-Kế-Nho
(1)
Số mệnh trời đã định cho người ta.
(2)
Công lý : Lẽ phải, ai ai cũng công nhận như vậy.
425.-Việc sắp xảy ra mà ngăn
được, việc đương xảy ra mà cứu được, việc đã hỏng mà vớt lại được thế là có quyền
biến, là có tài năng. Chưa có việc mà biết có việc sắp đến, mới có việc mà biết
việc sau thế nào, định việc mà biết việc xảy ra thế này, thế khác, thế gọi là
có lo xa, là có kiến thức.
Lã-Khôn
426.-Tâm chí chưa phải cay đắng,
hoạn nạn chưa từng trải qua, thời trí khôn chậm và đảm lực (1) non.
Hồ-Lâm-Dực
(1)
Đảm lực : Sức can đảm để làm việc gì.
427.-Khổ bụng (1) thì thế nào
giời cũng thương ; nặng tay thì nên nghĩ người khó chịu.
Cổ-Ngữ
(1)
Khổ bụng : Chịu nghĩ, chịu thiệt, chịu khổ.
428.-Nên tập quen chịu nực,
quen chịu rét, quen chịu khó, quen chịu khổ.
Tăng-Quốc-Phiên
429.-Người mà tính khí bất
thường, thì suốt đời không làm nên được một việc.
Tăng-Quốc-Phiên
430.-Xưa, nay người tầm thường
mà bại hoại (1), đều là vì tính “lười” ; người tài giỏi mà bạo hoại, đều là vì
tính “kiêu”.
Tăng-Quốc-Phiên
(1)
Bại hoại : Hư hỏng.
431.-Thiên hạ thật không có
cảnh ngộ nào dễ xử, nhân gian thật không có thì giờ nào là bỏ đi.
Tăng-Quốc-Phiên
432.-Bằng lòng yên số phận,
cắm cổ làm việc đời.
Tăng-Quốc-Phiên
433.-Việc xong mới hối mình
rằng dại, việc xong mới chê người còn khờ, như thế đều là chưa lịch duyệt (1) lắm
cả.
Tăng-Quốc-Phiên
(1)
Lịch duyệt : Từng trải, biết qua, làm qua.
(Khôn, dại)
434.-Người
ngu, việc đã xong, vẫn chưa biết ; người trí, việc chưa hiện, đã rõ rồi.
Chiến-Quốc-Sách
435.-Người suốt,
không đợi nghe nói, cũng đã hiểu ; người sáng, không đợi thấy hình cũng đã rõ.
Hán-Thư
436.-Đã khôn
mà lại hay bàn, hay hỏi, hay lo, hay tính, thì việc gì mà chả làm nên.
Gia-Ngữ
437.-Người ta
có bỏ hết được cái khôn vặt thì mới khôn to được.
Trang-Tử
438.-Người
khéo thường bận, người khôn hay lo.
Trang-Tử
439.-Kẻ biết
người là người “khôn” ; kẻ biết mình là “người sáng”.
Lão-Tử
440.-Cái gì
cũng biết, mà đạo làm người không biết, thì chưa gọi được là khôn.
Hoài-Nam-Tử
441.-Thường có
người thấy đám mây bay sang đằng tây, mà bảo là mặt trăng đi đằng đông.
Bão-Phác-Tử
442.-Vật gì
tuy rất sạch, giũ chẳng cẩn thận thời bẩn ; người ta tuy rất khôn, làm chẳng
suy nghĩ thời ngu.
Không-Động-Tử
443.-Có yên
tĩnh mới nảy ra tinh thần, có tinh thần mới nẩy ra trí lực.
Hồ-Lâm-Dực
444.-Đem trí
thuật xử với đời, có biết đâu đời không ai ngu cả.
Hồ-Lâm-Dực
445.-Ngu độn
thì người ta chê cười , thông minh thì người ta ngờ ghét ; thông minh mà như
ngu mới thật là khôn kín.
Lã-Khôn
(Sức mạnh hùng dũng)
446.-Thấy điều
phải mà không làm, thì thật là liệt nhược (1).
Luận-Ngữ
(1) Liệt nhược : Hèn kém yếu ớt.
447.-Người quyền
thế chỉ biết hùng dũng mà không biết nghĩa thì làm loạn ; người dân chỉ biết
hùng dũng mà không biết nghĩa thì trộm cướp.
Luận-Ngữ
448.-Cảm khái
mà tự sát, thì không phải là can đảm.
Hán-Thư
449.-Không vào
hang cọp, không bắt được cọp con.
Hậu-Hán-Thư
450.-Ông tướng
đánh trận thua, không thể nói chuyện hùng dũng được nữa.
Quảng-Vũ-Quân
451.-Hùng dũng
mà lại gặp người hùng dũng thì hùng dũng không đủ cậy ; khôn ngoan mà lại gặp
người khôn ngoan thì khôn ngoan không đủ cậy (Ý nói thành thật là hơn cả) .
Tô-Triệt
(Công bình, thiên tư)
452.-Giời
không che riêng, đất không chở riêng, mặt trời mặt trăng không soi sáng riêng.
Gia-Ngữ
453.-Không thể
lấy nặng nhẹ dối được người có cân, không thể dài ngắn dối được người có thước.
Quản-Tử
454.-Tâm ta
như cán cân, không thể vì người mà đuối, mà tươi được.
Gia-Cát-Lượng
455.-Tâm địa
bình tĩnh thì tự nhiên khoan khoái công minh.
Trình-Hiệu
456.-Việc của
thiên hạ, nên đem cái tâm của thiên hạ mà khu xử ; chớ nên khu xử bằng cái khôn
ngoan vụn vặt, trí tuệ nhỏ nhen.
Tả-Tôn-Đường
(Bằng lòng số phận)
457.-Mặt trời
đứng bóng thì xế, mặt trăng đã tròn thì khuyết, vật gì thịnh lắm thì suy.
Thái-Trạch
458.-Người tri
túc (1) không vì lợi mà làm lụy thân (2).
Trang-Tử
(1) Tri túc : Biết được thế là đủ rồi, không ham mê theo đuổi
nữa.
(2) Lụy thân : Phiền lụy khó chịu đến thân.
459.-Người tri
túc là người giàu.
Lão-Tử
460.-Thích lắm
tất tiêu to, chứa nhiều tất mất lớn, biết đủ thời chẳng nhục, biết thôi thời chẳng
nguy.
Lão-Tử
461.-Người tri
túc không bao giờ nhục.
Lão-Tử
462.-Dưa ngọt
thì cuống đắng ; trong thiên hạ không có vật gì là đẹp toàn.
Mặc-Tử
463.-Biết đủ
thường được vui sướng, hay nhẫn tự khắc yên ổn.
Khuyến-Giới-Toàn-Thư
464.-Người tri
túc thì nghèo hèn cũng vui sướng, người không tri túc thì giàu sang cũng lo buồn.
Lã-Bang-Hiến
465.-Người tri
túc, giời không bắt nghèo được ; người vô cầu (1), giời không bắt hèn được.
Ngụy-Hy
(1) Vô cầu : Không cầu cạnh luồn cúi ai.
466.-Phàm việc
đã tốt mà còn muốn cho tốt quá, nhiều khi hay hỏng.
Tả-Tôn-Đường
(Đừng tham)
467.-Đói rét đến
thân, quên cả liêm sỉ.
Triều-Thố
468.-Người hiền
mà nhiều của thì kém mất chí hay, người ngu mà nhiều của thì thêm nhiều tội lỗi.
Sơ-Quảng
469.-Ba ba,
thuồng luồng, cho vực còn nông, làm tổ dưới đáy, chim cắt, diều hâu, cho núi
còn thấp, làm tổ trên đỉnh, thế mà khi chết, cũng chỉ vì một cái mồi.
Tuân-Tử
470.-Không có
đức mà nhiều của là cái mầm tai vạ.
Tiềm-Phu
471.-Dưới con
mồi thơm, tất có con cá chết.
Tam-Lược
472.-Kẻ hiếu
thắng tất phải tranh, kẻ tham vinh tất phải nhục.
Khuyến-Giới-Toàn-Thư
473.-Lòng dục
không trừ, thì như con thiêu thân đâm vào lửa, cháy mạng mới thôi ; lòng tham
không bỏ, thì như con đười ươi thích uống rượu, đổ máu mới thôi.
Khuyến-Giới-Toàn-Thư
474.-Người có
bao nhiêu của cũng không vừa, thì tham lam đê tiện không biết thế nào mà kể.
Vương-An-Thạch
(Cư xử ở đời)
475.-Có của cải
mà để không kín đáo, là gợi cho người ta ăn trộm. Có nhan sắc mà tính hay vuốt
ve, là gợi cho người ta ghẹo bỡn.
Dịch-Kinh
476.-Giời làm
ác nghiệt, còn có thể tránh được ; tự mình gây nên ác nghiệt, thì mình làm mình
chịu, còn tránh làm sao được.
Thư-Kinh
477.-Không
ghen ghét ai, không cầu cạnh ai, thì làm việc gì mà chẳng lành, chẳng tốt.
Thư-Kinh
479.-Kẻ nói
thì nhân đức mà kỳ thực không có gì, thường gặp phải những sự oán ân, tai vạ.
Lễ-Ký
480.-Có biết
vâng lời, vậy sau mới biết sai khiến.
Lễ-Ký
481.-Người ta
không biết mình mà mình không giận, thế chả là quân tử ư.
Luận-Ngữ
482.-Chẳng lo
người ta không biết mình,chỉ lo mình không biết phân biệt người hay người dở.
Luận-Ngữ
483.-Đối với
người già thì kính mến, đối với bè bạn thì tin thật, đối với người trẻ thì
thương yêu.
Luận-Ngữ
484.-Chẳng giận
điều nọ xọ sang điều kia, chẳng lỗi lần này lại phạm làn nữa.
Luận-Ngữ
485.-Người
không lo xa, tất nhiên có ưu hoạn (1) gần.
Luận-Ngữ
(1) Ưu hoạn : Sự lo phiền hoạn nạn làm cho người ta khốn khổ.
486.-Tự trách
mình nhiều mà trách người ít, thì không ai oán giận.
Luận-Ngữ
487.-Người
quân tử hợp quần (1) mà chẳng kết đảng (2).
Luận-Ngữ
(1) Hợp quần : Ăn ở một cách có đoàn thể để giữ gìn lấy
nhau.
(2) Kết đảng : Kết thành phe tụi, công kích lẫn nhau, để thỏa
lòng tự tư tự lợi.
488.-Trọng người
giỏi mà dong người thường ; khen người hay mà thương người dở.
Luận-Ngữ
489.-Yêu người,
người thường yêu lại ; kính người, người thường kính lại.
Mạnh-Tử
490.-Việc gì
thiên hạ đang tức giận, thì chớ giây đến.
Tả-Truyện
491.-Muốn cho
người ta yêu mình, trước hết phải yêu người đã. Muốn cho người ta theo mình,
trước hết phải theo người đã.
Quốc-Ngữ
492.-Phong tục
xô đẩy, người khôn cũng khó tránh.
Dương-Vận-Truyện
493.-Kẻ tự cho
mình là giỏi thì tai không được nghe nhời khôn lẽ phải nữa.
Gia-Ngữ
494.-Sự ưu hoạn
là bạn cùng ở suốt đời với người ta.
Trang-Tử
495.-Tự mình
không biết mình là một điều hại lớn.
Lã-Thị-Xuân-Thu
496.-Đối với
người có tài đức to, thì đừng chê bai những nết nhỏ mọn. Đối với người có danh
dự lớn, thì đừng chỉ trích những lỗi cỏn con.
Hoài-Nam-Tử
497.-Dùng
“nhân” để trị người, dùng “nghĩa” để trị ta.
Đổng-Trọng-Thư
498.-Ăn ở hay
mà gặp dở thì gọi là số ; ăn ở dở mà gặp hay thì gọi là may.
Trung-Luận
499.-Biết
phòng xa thì cai quản người, không biết phòng xa thì người cai quản.
Diêm-Thiết-Luận
500.-Cùng ở với
nhau lúc có ưu hoạn thì dễ, cùng ở với nhau lúc có quyền lợi thì khó.
Lã-Đông-Lai
501.-Gia đình
như xảy ra chuyện không hay, nên xử một cách thung dung, chớ có khích liệt (1).
Bầu bạn như có điều không phải, nên can một cách thiết liệt (2), chớ có ưu du
(3).
Thiệu-Khang-Tiết
(1) Khích liệt : Trêu trọc dữ dội.
(2) Thiết thật : Thật sự, đến nơi đến chốn.
(3) Ưu du : Bỏ xuôi, mặc kệ.
502.-Chỉ có
chút lòng nại phiền (1) thì việc gì cũng làm được, người nào cũng xử được.
Nhân-Sinh-Tất-Độc-Thư
(1) Nại phiền : Chịu quen được khó nhọc, nhẫn nại.
503.-Người ta
thường tiếc cái đã qua về trước, mong cái sắp đến sau này, mà sao nhãng hững hờ
cái hiện đang có.
Tôn-Trung-Quân
504.-Người ta
giữ được sáu chữ “Thiên lý (1), Quốc pháp (2), Nhân Tình (3)” thì suốt đời
không có tội lỗi.
Bảo-Huấn
(1) Thiên lý : Lẽ phải tự nhiên ai cũng nên theo.
(2) Quốc pháp : Phép nước, điều nên theo, điều nên tránh.
(3) Nhân tình : Tính người hay, dở.
505.-Người
khéo dùng “oai” không giận bậy ; người khéo dùng “ơn” không cho bậy.
Lã-Khôn
506.-Người ta
mà nóng nảy, nông nổi, hẹp hòi, thì xử việc, việc hay hỏng, tiếp người, người
hay giận, mà chính mình cũng phải thiệt thòi.
Lã-Khôn
507.-Quân tử
được nghìn vạn người khen ngợi, không lấy làm sướng, phải một vài người kiến thức
chỉ nghị (1), thì lấy làm lo.
Tăng-Quốc-Phiên
(1) Chỉ nghị : Chỉ trích một việc gì mà bàn bạc chê cười.
(Lòng thương, việc phải)
508.-Kẻ bất
nhân không xử lâu được cảnh cùng khổ, cùng khổ mãi thì làm liều ; không xử lâu
được cảnh yên vui, yên vui mãi thì sinh đãng (1).
Luận-Ngữ
(1) Đãng : Hư, phóng túng, chẳng hay giữ mình.
509.-Làm bất
nghĩa mà được giàu sang, giàu sang ấy ta coi như mây nổi.
Luận-Ngữ
510.-Kẻ bất
nhân mà ta ghét bỏ quá tệ, thế là khích nó làm càn.
Luận-Ngữ
511.-Người ta
nhân thì vinh, bất nhân thì nhục.
Mạnh-Tử
512.-Người chỉ
làm giàu là người bất nhân, người chỉ làm nhân là người không giàu.
Mạnh-Tử
513.-Người
nhân thường rộng yêu cả loài người.
Lễ-Ký
514.-Kẻ bất
nghĩa mà lại mạnh thế, càng chóng chết lắm.
Tả-Truyện
515.-Nghĩa mà
trọng hơn đời người, thì bỏ đời người đi là phải ; đời người mà trọng hơn
nghĩa, thì giữ trọn đời người là phải.
Đỗ-Kiều
516.-Người
nhân chẳng chịu khổ thân để cầu lấy hư danh (1) ; người nghĩa chẳng làm thiệt
người để vụ lấy tự ích (2).
Tân-Tự
(1) Hư danh : Tiếng hão, chỉ có tiếng không có sự thật.
(2) Tự ích : Ích riêng cho thân mình.
517.-Sự học,
trước hết phải phân biệt việc nghĩa với việc lợi.
Trương-Thức
(Khiêm nhường, cẩn thận)
518.-Lên rằng
hay, thế là mất hay ; khoe có công, thế là mất công.
Thư-Kinh
519.-Tính kiêu
ngạo chớ để mọc ra ; lòng ham mê chớ để buông rộng ; chí phải cho to, chớ có
mãn túc (1) ; vui phải có hạn, chớ có kỳ cùng.
Lễ-Ký
(1) Mãn túc : Tự cho là to, là đầy đủ.
520.-Người
quân tử, bất kỳ làm việc gì, cẩn thận ngay từ lúc bắt đầu.
Lễ-Ký
521.-Vì tức giận
một lúc, mà quên cả thân, quên cả cha mẹ, thế là nhầm lắm.
Luận-Ngữ
522.-Chớ khoe
điều hay, chớ phô công trạng.
Luận-Ngữ
523.-Vì mình
không tranh, cho nên thiên hạ không ai có thể cùng tranh nổi.
Lão-Tử
524.-Cứng quá
tất gãy, găng quá tất đứt.
Lục-Thao-Tam-Nghi
525.-Loài kim
cứng quá thì gãy, mảnh da căng quá thì rách.
Thuyết-Uyển
526.-Cậy mình
phú quý, học thức mà khinh người, đều là tự mình gây dựng ra tai vạ cả.
Bàng-Thị
Gia-Huấn
527.-Loài kim
vì cứng mà hay gẫy, nước vì mềm mà được toàn.
Bão-Phác-Tử
528.-Cảnh giàu
sang giống như nhà trọ, chỉ người cẩn thận mới ở được lâu.
Cáp-Khoan-Nhiêu
529.-Phàm việc
nên nhường công, nên để hay cho người, chớ có khoe tài, khoe đức của mình vào đấy.
Tiết-Kính-Hiên
530.-“Khí”
kiêng nhất là hung hăng, “tâm” kiêng nhất là hẹp hòi, “tài” kiêng nhất là bộc lộ.
Lã-Khôn
531.-Tự khiêm
thì người ta càng phục, tự khoe thì người ta càng khinh.
Kinh-Viên Tiểu-Ngữ
(Chí tiết, khí khái)
532.-Kẻ học giả
có chí muốn biết những sự cao minh, mà còn xấu hổ mặc không được đẹp, ăn không
được ngon, thì chưa đáng cùng nói chuyện cao minh được.
Luận-Ngữ
533.-Thấy lợi
nghĩ đến nghĩa mà không lấy bậy, lâm nạn làm hết sức mà không tiếc thân, một lời
giao ước, tuy lâu ngày mà vẫn nhớ mãi.
Luận-Ngữ
534.-Đáng chết
thì chết : quyết không cầu thả cầu sống, để cho “tâm” không được yên, thà chỉ
nên thí thân đi, để cho “tâm” được yên và “đức” được trọn vẹn.
Luận-Ngữ
535.-Người đã
biết nuôi “chí” thì không nghĩ đến “hình” ( quí tinh thần hơn quí thân thể ).
Trang-Tử
536.-Người nào
có chí, làm việc hay nên.
Hậu-Hán-Thư
537.-Nghèo là
cảnh thường của học trò ; chết là sự hết của đời người.
Gia-Ngữ
538.-Ai mà
thân được nhàn rỗi thì chí thường hẹp hòi.
Gia-Ngữ
539.-Đói xác
ve hơn no lè tè bọ hung.
Bão-Phác-Tử
540.-Người đi
học chẳng lo không có tài, chỉ lo không có chí.
Diêm-Thiết-Luận
541.-Người
quân tử, trọng được, khinh được, làm tội được, giết chết được, nhưng không thể
bắt làm xằng được.
Diêm-Thiết-Luận
542.-Người quân
tử không buồn tuổi sắp già, chỉ lo chí trễ nải.
Trung-Luận
543.-Người đời
đục cả, ta một mình trong ; người đời say cả, ta một mình tĩnh.
Khuất-Bình
544.-Liêm sỉ
là việc lớn, tử sinh là việc nhỏ.
Diệp-Mộng-Đắc
545.-Không gì
nghèo bằng không có tài, không gì hèn bằng không có chí.
Uông-Cách
546.-Học trò
trong nước mà không có chí tiết, thì thế nước thoi thóp như người sắp chết.
Tiết-Huyên
547.-Người ta
thứ nhất phải “có chí” (1), thứ nhì phải “có thức” (2), thứ ba phải “có thường”
(3).
Tăng-Quốc-Phiên
(1) Có chí : Để tâm vào việc gì và cố làm cho được.
(2) Có thức : Hiểu biết tính người, việc đời.
(3) Có thường : Bao giờ cũng vậy, không biến đổi, không
gián đoạn.
548.-Phải trái
không rõ ràng, tiết nghĩa không giảng xét, thiên hạ sở dĩ loạn là tại thế.
Hồ-Lâm-Dực
(Rộng rãi, bao dong)
549.-Việc gì
người ta làm cho mà ta không thích, ta cũng chớ làm việc ấy cho người ta.
Lễ-Ký
Trung-Dung
550.-Những điều
mình không muốn, thì chớ làm cho người.
Luận-Ngữ
551.-Một lời
nên làm luôn là “Thứ” (1) ; một việc nên có luôn là “Chính” (2).
Thân-Giám
(1) Thứ : Khoan dong, có lượng.
(2) Chính : Ngay thẳng, không gian phi.
552.-Người
quân tử không trách việc người ta không nghĩ tới, không ép việc người ta không
làm được, không bắt việc người ta không thích.
Văn-Trung-Tử
553.-Chim
không thể chạy, ngựa không thể hay, can gì chê nhau những điều không thể hay.
Nguyên-Điền
554.-Đừng oán
ta không bằng ai, người không bằng ta vô số ; đừng khoe ta giỏi hơn ai, người
giỏi hơn ta cũng nhiều.
Khuyến-Giới-Toàn-Thư
555.-Đem lòng
trách người mà trách mình, thì ít lỗi ; đem lòng dong mình mà dong người, thì
ít oán.
Lâm-Bô
556.-Trông thấy
những việc cực ác (1) thế gian, thì còn sự nhầm, sự lỗi gì, mà chả dong thứ ;
nghĩ đến những kẻ cực oan xưa nay, thì câu mỉa, câu chê gì là đáng so kể.
Lưu-Cao
557.-Trách người
đến nỗi người ta ngậm miệng, nín tiếng, đỏ mặt, toát mồ hôi, mình tuy hả lòng,
song thế thật là con người nông nổi khe khắt quá.
Lã-Khôn
558.-Không
trách gì người là cách cần nhất để biết sửa lấy thân ; hay thể (1) cho người ta
là cách cần nhất để tập cho có lượng.
Lã-Khôn
(1) Thể : Đem thân mình mà xử vào cảnh người.
559.-Việc đời
có việc mình không thích mà người thích, có việc người thích mà mình không
thích.
Lã-Khôn
560.-Chớ đem
điều mình giỏi, mà bắt người cũng như thế ; chớ đem điều mình hay, mà khinh người
không được thế.
Triệu-Khiêm
561.-Thiện
không gì quí bằng “khoan dung” ; ác không gì dở bằng “ghen ghét”.
Tăng-Quốc-Phiên
(Lành, dữ)
562.-Thiện
không làm nhiều, không đủ nổi tiếng ; ác không tích nhiều, không đủ hại thân.
Dịch-Hệ-Từ
563.-Người thiện
làm điều lành, suốt ngày như chưa đủ ; người ác làm điều dở, cũng suốt ngày như
chưa đủ.
Thư-Kinh
564.-Giồng “đức”
chăm cho lớn, trừ “ác” bỏ cho sạch.
Thư-Kinh
565.-Người tốt
mà giàu, thế là trời thưởng ; người xằng mà giàu, thế là trời phạt.
Tả-Truyện
566.-Thiện thì
thiện theo, ác thì ác theo, cũng như bóng theo hình, vang theo tiếng.
Đổng-Trọng-Thư
567.-Chớ bảo
điều thiện này nhỏ mà chẳng làm, chớ bảo điều ác kia nhỏ mà cứ làm.
Thục-Tiên-Chúa
568.-Công chẳng
gì giỏi bằng bỏ ác mà làm thiện, tội chẳng gì to bằng bỏ thiện mà làm ác.
Tân-Thư
569.-Biết hay
mà không tin, gọi là dại ; biết dở mà không chừa, gọi là mê.
Dục-Tử
570.-Bụng người
quân tử, muốn cho người ta cũng hay như mình ; bụng kẻ tiểu nhân, muốn cho người
ta cũng dở như mình.
Trình-Di
571.-Ẩn ác,
dương thiện là bậc thánh ; thích thiện ghét ác là bậc hiền ; tách bạch thiện,
ác quá đáng là hạng người tầm thường ; điên đảo thiện, ác để sướng miệng gièm
pha, là hạng tiểu nhân hiểm ác.
Chu-Trung-Trang-Công
572.-Suốt đời
làm lành, lành cũng chưa đủ ; một ngày làm ác, ác đã có thừa.
Hà-Viên
573.-Kẻ trách
mình, có thể làm nên điều hay cho người ; kẻ trách người, thật là làm thêm cái
dở cho mình.
Hứa-Hành
574.-Nghe thấy
người ta hay thì ngờ, nghe thấy người ta dở thì tin, thế là bụng đầy những gươm
giáo.
XIII.-HIẾU, Ố
(Yêu, ghét)
575.-Yêu ai,
nhưng cũng nên biết điều dở của người ấy ; ghét ai, nhưng cũng phải biết điều
hay cho người ấy.
Lễ-Ký
576.-Khi yêu
thì muốn cho sống, khi ghét lại muốn cho chết ; mình không có quyền làm được sống,
chết, mà lúc thì muốn cho sống, lúc lại muốn cho chết, như thế thật là mê hoặc
lắm thay.
Luận-Ngữ
577.-Có kẻ nhiều
người ghét, song hoặc là kẻ có tính khác thường (1) chăng, ta hẳn phải xét xem,
thật đáng ghét vậy sau mới ghét. Có kẻ nhiều người yêu, song hoặc là kẻ có tính
nịnh đời (2) chăng, ta hẳn phải xét xem thật đáng yêu, vậy sau mới yêu.
Luận-Ngữ
(1) Khác thường : Tư tưởng, hành vi một cách sâu xa, trái hẳn
với hạng người tầm thường.
(2) Nịnh đời : A dua, lấy lòng tất cả những hạng người.
578.-Người mê
thích điều lành, phúc tuy chưa đến, song họa đã xa ; người mà không thích điều
lành, họa tuy chưa đến, song phúc đã xa.
Trung-Luận
579.-Người mà
nhiều người ghét, thì nguy lắm.
Tuân-Tử
580.-Việc được,
thì gièm pha nổi lên ; đức cao, thì chê bai kéo đến.
Hàn-Dũ
581.-Yêu người
mà yêu vô lý, thành ra làm hại cho người ; ghét người mà ghét vô lý, thành ra
làm hại cho thân.
Ngụy-Tế-Thụy
582.-Người
quân tử, ta nên thân, song không nên quá chiều mà phụ họa ; kẻ tiểu nhân, ta
nên tránh, song không nên ruồng rẫy như hằn thù.
Thân-Hàm-Quang
(Lấy,cho)
583.-Người
quân tử cứu kẻ khốn khó, chẳng làm giàu thêm cho kẻ đã giàu.
Luận-Ngữ
584.-Người ai
cũng biết có “lấy” mới gọi là “lấy”, nhưng không biết cách “cho” mà cũng là “lấy”.
Hàn-Đàm-Truyện
585.-Giàu có
mà biết trẩn cấp cho kẻ khốn cùng mới là quý, nếu không, thì chỉ là một đứa
canh tiền.
Mã-Viện
586.-Kẻ chịu
ơn, thường sợ người ; kẻ làm ơn, thường kiêu người.
Gia-Ngữ
587.-Không
đáng cho mà cho, thì không phải là ơn.
Diêm-Thiết-Luận
588.-Bo bo giữ
của không biết bố thí, thì thật là đầy tớ đồng tiền.
Đường-Tử
589.-Làm ơn
cho ai, thì chớ kể ; chịu ơn của ai, thì chớ quên.
Viên-Thị-Thế-Phạm
(Cách giao tiếp với mọi người)
590.-Lễ, quý
có đi, có lại với nhau.
Lễ-Ký
591.-Cùng bè bạn
chơi, nói phải có tín (1).
Luận-Ngữ
(1) Tín : Nói thế nào, làm như thế. Không dối trá.
592.-Làm bạn với
người thẳng, người thật, người giỏi thì có ích ; làm bạn với người gian, người
nịnh, người lém thì có hại.
Luận-Ngữ
593.-Không biết
phân biệt câu nói hay, dở, thì không thể nào biết kẻ tà, người chính được.
Luận-Ngữ
594.-Chơi với
người hay như vào nhà hoa, lâu không ngửi thấy thơm, thế là hóa hay. Chơi với kẻ
dở, như vào hàng cá, lâu không ngửi thấy tanh, thế là hóa dở.
Lễ-Ký
595.-Giàu sang
mà nhũn nhặn thì ai chả quý, giàu sang mà âu yếm, thì ai chả thân.
Gia-Ngữ
596.-Lễ nhiều,
nói ngọt là mồi giử ta.
Tả-Khưu-Minh
597.-Quen biết
sơ sài mà chuyện nói thân thiết, thế là người ngu.
Thôi-Nhân
598.-Xem chơi
với ai, đủ biết con người hay dở.
Quản-Tử
599.-Người chê
ta mà chê phải là thầy ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, người nịnh hót
ta là kẻ hại ta.
Tuân-Tử
600.-Ở phải chọn
láng giềng, chơi phải chọn bạn.
Tuân-Tử
601.-Kẻ lấy thần
thế chơi với nhau, thần thế đổ là hết bạn ; kẻ lấy của cải chơi với nhau, của cải
tan là mất bạn.
Văn-Trung-Tử
602.-Quân tử
khi lấy gì, thì xem người cho, đáng lấy mới lấy ; khi cho gì, thì ai cũng cho,
không cần phải chọn.
Thuyết-Uyển
603.-Người
quân tử mời được, nhưng không dụ được ; bỏ được, nhưng không khinh được.
Văn-Trung-Tử
604.-Chơi với
người trên, chớ nịnh ; chơi với người dưới, chớ kiêu.
Dương
Tử
605.-Người ta
đi xa, qua sông không khó, trèo non không khó, chỉ khó tại nơi nhân tình giáo dở,
hiểm hơn non sông.
Bạch-Cư-Dị
606.-Kẻ ta nói
chọc tức mà không giận, phi là người có đại lượng, tất là kẻ có thâm cơ.
Lưu-Phan
607.-Người nào
không hay chịu nghe lời, thì một câu, ta cũng không nên nói với.
Hoàng-Đình-Kiên
608.-Thích điều
hay thì bạn hay đến, thích điều dở thì bạn dở đến.
Trình-Hiệu
609.-Người ta
chưa biết bụng mình, chẳng nên vội cần cho người ta biết ; người ta chưa hợp ý
mình, chẳng nên vội cầu cho người ta hợp.
Tiết-Huyên
610.-Người ta
bất đắc dĩ phải ở với kẻ vô nghĩa (1), thì ngoài phải hòa nhã, trong phải bình
tâm, ngõ hầu mới khỏi tai vạ.
Nguyện-Thể-Tập
(1) Vô nghĩa : Không biết lẽ phải trái ; người xằng.
611.-Không hứa
bậy, cho nên mình không phụ ai ; không tin bậy, cho nên không ai phụ mình.
Ngô-Hoài-Dã
612.-Kẻ hay
nói xấu người, thật là khinh bạc ; kẻ gặp ai cũng khen ngợi, thì cũng chưa phải
là người hay.
Trần-Cơ-Đình
613.-Đối người
phú quí, có lễ độ không khó, có thể thống mới khó ; đối người bần tiện, có ơn
huệ không khó, có lễ độ mới khó.
Lưu-Cao
614.-Kẻ không
phục ai, cùng kẻ thấy ai cũng phục, đều là ngu si, gàn dở cả.
Kinh-Viên-Tiểu-Ngữ
615.-Câu khen
quá đáng của người bạn, lại hại hơn câu chê quá đáng của kẻ thù.
Ly-Mã-Bão
616.-Lên trời
khó, cầu cạnh người ta lại khó hơn ; hoàng điên đắng,nghèo khổ lại đắng hơn ;
giá mùa xuân bạc, tình người lại bạc hơn ; sông núi hiểm, lòng người lại hiểm
hơn. Biết được khó, chịu được khổ, quen được bạc, dò được hiểm thì mới khả dĩ ở
đời.
Tiền-Hạc-Than
617.-Lòng nghĩ
làm hại người, chẳng nên có ; lòng nghĩ để phòng người chẳng nên không.
Tôn-Miện
618.-Quân tử đối
với người, dạy dỗ không nghe, vậy sau mới trách ; thể tất (1) không được, vậy
sau mới giận.
Lã-Khôn
(1) Thể tất : Đem thân mình xử vào địa vị người.
619.-Đối với
người lo, chớ vui ; đối với người khóc, chớ cười ; đối với người thất ý (1), chớ
khoe.
Lã-Khôn
(1) Thất ý : Buồn bực không được như lòng ước ao.
620.-Hai bên
cùng hối, thì không sự căm giận gì là không tan ; hai bên cùng ưa, thì không sự
giao du gì là không hợp ; hai bên cùng giận, thì không sự tai vạ gì là không
gây nên.
Lã-Khôn
621.-Muốn làm
người tốt, phải tìm bạn tốt.
Cổ-Ngữ
622.-Kẻ nào
theo ý ta mà nói là kẻ tiểu nhân, ta nên xa tránh.
Thân-Hàm-Quang
(Nghèo, giàu)
623.-Nghèo chẳng
nên nói dối, giàu chẳng nên cậy mình.
Thái-Công
624.-Kẻ tiểu nhân nghèo thì bủn xỉn, giàu thì kiêu
căng.
Lễ-Ký
625.-Người mà
tính hung hăng, lại ghét nghèo khổ, thì tất làm xằng.
Luận-Ngữ
626.-Nghèo mà
không nịnh, giàu mà không kiêu.
Luận-Ngữ
627.-Nghèo mà
không oán mới khó, giàu mà không kiêu còn dễ.
Luận-Ngữ
628.-Người
giàu có mà không khôn ngoan, thì cũng như bù nhìn mặc áo gấm.
Triệu-Vũ
629.-Ai sinh
ra mà giàu ngay thì kiêu, ai sinh ra mà sang ngay thì hay ngạo.
Hậu-Hán-Thư
630.-Có cái rất
giàu mà không phải là vàng bạc, có cái sống rất lâu mà không phải là thọ nghìn
năm.
Hoài-Nam-Tử
631.-Rất sang
không phải đợi phải có chức tước, rất giàu không đợi phải có tiền tài.
Hoài-Nam-Tử
632.-Chăm cho
có vốn to mà tiêu dùng chừng mực, thì giời cũng không bắt nghèo được.
Tuân-Tử
633.-Nhà có của
cải hàng nghìn, hàng vạn, mà không biết cách làm ăn, thì cũng như nghèo vậy.
Hàn-Thi-Ngoại-Truyện
634.-Giàu phải
nghĩ đến lúc nghèo, trẻ phải nghĩ đến lúc già.
Thuyết-Uyển
635.-Ta được
giàu sang, chớ để người cười là phường béo ăn (1) ; ta phải nghèo hèn, chớ để
người chê là đồ vô chí (2).
Lục-Sinh
(1) Béo ăn : Chỉ vụ ăn uống sung sướng, không biết lo sâu
tính xa. Những công việc cho thân cho nhà.v.v…
(2) Vô chí : Chịu ép một bề, không biết để tâm lo liệu lập
lấy thân.
636.-Không lấy
bậy của ai, gọi là giàu ; không bị nhục với ai, gọi là sang.
Công-Nghi
637.-Luồn cúi
để giàu sang, chẳng bằng nghèo hèn mà khí khái.
Khổng-Tòng-Tử
638.-Giời cho
ta giàu sang sung sướng, là chiều chuộng để cho ta dễ làm lành ; giời bắt ta
nghèo khổ lo buồn, là mài giũa để cho ta kiên gan, bền chí.
Trương-Hoành-Cừ
639.-Bần tiện
sinh ra cần kiệm, cần kiệm sinh ra phú quý, phú quý sinh ra kiêu sa, kiêu sa
sinh ra dâm dật, dâm dật lại sinh ra bần tiện.
Sử-Điển-Nguyện-Thể-Tập
640.-Nghèo
không là xấu, nghèo mà không có chí mới là xấu ; hèn không đáng ghét, hèn mà
không có nghề mới đáng ghét.
Lã-Khôn
(Ân huệ, thù oán)
641.-Chỉ
chuyên tâm làm lợi cho riêng mình, thì nhiều người oán.
Luận-Ngữ
642.-Chẳng oán
giời, chẳng trách người.
Luận-Ngữ
643.-Dùng ân đức
để báo oán.
Lão-Tử
Lão-Tử
644.-Dùng cách
ngay thẳng để báo oán, dùng lòng ân đức để báo ơn.
Luận-Ngữ
645.-Ăn ở đến
hàng nghìn người chỉ mặt, thì không bệnh cũng phải chết.
Hán-Thư
646.-Miệng nói
ân huệ, mà thật không có gì, thì chỉ tổ cho người ta oán.
Quản-Tử
647.-Làm những
việc to, chẳng nên nề hà những oán nhỏ.
Hán-Quang-Vũ
648.-Người ta
soi gương, thấy mặt bẩn, thì lau rửa ngay và khen gương tốt. Sao khi có tội lỗi,
gặp được ai chỉ trích, thì lại ghét mà không ơn.
Hoài-Nam-Tử
649.-Của chứa
nhiều, mà không biết dùng, thì thật là “kho oán”.
Thuyết-Uyển
650.-Kẻ biết
phận mình, chẳng oán giời ; kẻ biết thân mình, chẳng trách người.
Thuyêt-Uyển
651.-Lợi làm
cho trí khôn tối tăm.
Sử-Ký
652.-Trước hết
tránh hại, sau mới hãy cầu lợi.
Hậu-Hán-Thư
653.-Chỉ vì lợi
mà sinh bao nhiêu hoạn nạn.
Tiêu-Doãn
654.-Có quả
quyết mới trừ được cái “hại”.
Chu-Thư
655.-Thiên hạ
đều vì lợi mà xô đẩy nhau đi, thiên hạ đều vì lợi mà đua chen nhau lại.
Lục-Thao-Dật-Văn
656.-Tâm chẳng
được điều “nghĩa” thì chẳng vui, thân chẳng được chút “lợi” thì chẳng yên.
Phồn-Lộ
657.-Ai cũng
biết lợi mới là lợi, mà chẳng biết không hại cũng là lợi ; ai cũng biết hại mới
là hại, mà chẳng biết có lợi cũng là hại.
Khuyến-Giới-Toàn-Thư
658.-Làm được
một điều lợi, không bằng trừ được một điều hại.
Gia-Luật-Sở-Tài
659.-Lấy lợi
chung của nước làm lợi riêng của mình, thì gọi là kẻ làm tàn hại nước.
Hoàng-Lê-Châu
660.-Thấy lợi
xông vào, thấy hại lùi lại, hay vơ vào mình, dở đùn cho người, đó là thói thường
kẻ tiểu nhân vậy.
Lã-Khôn
661.-Người ta
hay có lỗi to, là chỉ tại “tự tư, tự lợi” (1).
Lã-Khôn
(1) Tự tư, tự lợi : Chỉ biết mình, chỉ ích mình không nghĩ
đến ai cả.
662.-Nhà làm
nhiều điều lành, tất có phúc thừa ; nhà làm những điều chẳng lành, tất có vạ thừa.
Dịch-Kinh
663.-Người ta
thường sống về lo nghĩ, hoạn nạn (1) mà chết về yên nhàn, vui sướng (2).
Mạnh-Tử
(1) Lo nghĩ hoạn nạn : Cảnh khổ thúc giục người ta lo nghĩ
để lập thân, để gây dựng cơ đồ, sự nghiệp.
(2) Yên nhàn vui sướng : Cảnh sướng làm cho người ta hay
sinh ra phóng đãng và bại hoại, nguy vong.
664.-Không có
đức mà phúc nhiều, thì cũng như không có nền, mà tường cao, chả bao lâu thế nào
cũng đổ.
Phạm-Văn-Tử
666.-Ái có đức
thì thịnh vượng, ai cậy sức thì nguy vong.
Triệu-Lương
667.-Ai làm
lành thì giời cho phúc, ai làm ác thì giời bắt tội.
Gia-Ngữ
668.-Còn hay mất,
phúc hay họa, do ở mình cả ; tai giời, gở đất thì có can gì.
Tập-Ngữ
669.-Nhiều người
yêu thành ra phúc ; nhiều người ghét thành ra họa.
Hoài-Nam-Tử
670.-Chỉ ai
không cầu lợi mới không hại, chỉ ai không cầu phúc mới không họa.
Hoài-Nam-Tử
671.-Giàu sang
mà tài đức không xứng, thì tai vạ mới to.
Vương-Phù
672.-Của ngon
nát ruột, sắc đẹp mê lòng, người hung hăng hay phải vạ, miệng biện ác hay chiêu
tai (1).
Diêm-Thiết-Luận
(1) Chiêu tai : Vời chuốc lấy tai vạ.
673.-Thấy tai
vạ mà hay làm lành, thời tai vạ không đến nữa.
Thuyết-Uyển
674.-Ai có
phúc lạ thường, tất nhiên có họa lạ thường.
Liệt-Nữ-Truyện
675.-Phúc đến
thì bụng khôn ngoan, họa lại thì thần mê muội.
Sử-Chiếu-Thông-Giám
676.-Sức mạnh
không thể làm được phúc, trí khôn không thể tránh được vạ.
Kê-Khang
677.-Thường
khi giây phút không nhẫn, mà sinh ra tai vạ rất to.
Vương-An-Thạch
678.-Làm lành
mà mong giời báo thì không được phúc ; làm ơn mà chực người báo thì không có đức.
Dả-Thạch-Quì
679.-Việc làm
tại người, mà thành được việc thì tại giời ; phúc giáng tự giời, mà ở được phúc
thì tự người.
Lưu-Cao
680.-Cho quỉ
thần là “chưa chắc đã biết” thì chẳng nên cầu phúc ; cho quỉ thần là “quyết
nhiên có biết” thì chớ nên làm xằng.
Lưu-Cao
681.-Kẻ có tiếng
hão, kẻ hay ác ngầm, kẻ sẵn lòng ghen ghét, thì thường hay gặp tai vạ bất ngờ.
Tăng-Quốc-Phiên
(Gặp gỡ duyên may)
682.-Hùm
thiêng ở núi, oai vệ vô cùng, đến lúc sa cơ, cũng hèn, cũng nhục.
Tư-Mã-Thiên
683.-Nhẹ nhàng
như chim hồng bay gặp cơn gió xuôi, vùng vẫy như con cá to ra làn nước lớn.
Vương-Bao
684.-Rồng mà
thất thế, thì cũng như giun.
Ngỗi-Ngao
685.-Cỏ bồng gặp
gió, mà đi được nghìn dặm, là thừa cái thế gió (Nhân cơ hội mà làm thì dễ).
Thương-Tử
(Biết thấu việc đời và đời người)
686.-Trong họa,
phúc thường mọc sẵn ; trong phúc, hoa thường nấp sẵn.
Lão-Tử
687.-Người ta
đều biết sống là vui, chưa biết sống là khổ ; đều biết già là mệt, chưa biết
già là nhàn ; đều biết chết là xấu, chưa biết chết là được yên.
Liệt-Tử
688.-Người
sinh ở đời, nếu trong lòng không tự đắc (1) thì đi đến đâu mà chả khổ ; nếu
trong lòng thản nhiên (2) thì đi đến đâu mà chả sướng.
Mã-Tồn
(1) Tự đắc : Vui vẻ, tự nhiên, bằng lòng số phận.
(2) Thản nhiên : Khoan khoái, tự nhiên, không để sự vật bên
ngoài làm lụy đến tâm thân.
689.-Chớ đem vọng
tưởng (1) mà hại chân tâm (2) ; chớ đem khách khí (3) làm hại nguyên khí (4).
Hồ-An-Quốc
(1) Vọng tưởng : Nghĩ xằng, nghĩ viển vông, hão huyền.
(2) Chân tâm : Tính trời tự nhiên, vốn lành vốn hay.
(3) Khách khí : Hơi xằng, hơi hão, thường làm cho người ta
tức giận vô ích.
(4) Nguyên khí : Tính khí của giời phú cho người ta.
690.-Nhàn tản
lắm chẳng phải là chân lạc (1).
Chu-Hi
(1) Chân lạc : Vui vẻ một cách chân chính.
691.-Bậc đại
nhân cho cả thiên hạ làm một thân : nếu nào ta, nào người, tách bạch quá đáng,
thì tâm mình đã chênh lệch rồi, còn bình thiên hạ sao được ; cho nên muốn tu
thân, trước phải chính tâm (1).
Dương-Phục-Sở
(1) Chính tâm : Làm cho tâm(tư tưởng) được bằng phẳng ngay
ngắn không chênh lệch tí nào.
692.-Người ta
lúc nhắm mắt đi thì dể cho sâu bọ tha hồ đục vào thây xác, thế mà lúc sống,
không chịu nhường nhịn nhau một chút, là tại làm sao ?
Cao-Phan-Long
693.-Lời nói,
việc làm so sánh với cổ nhân thì “đức” tiến (1) ; công danh phú quí phó mặc cho
thiên mệnh (2), thì “tâm” nhàn (3) ; báo ứng (4) nghĩ đến con cháu, thì không
làm xằng ; hưởng thụ lo đến túng thiếu, thì tiêu dùng biết tiết kiệm.
Trần-Cấp-Sơn
(1) Đức tiến : Đức hạnh một ngày một hay nên.
(2) Thiên mệnh : Mệnh trời đã định cho người ta.
(3) Tâm nhàn : Tâm thần khoan khoái không phiền não.
(4) Báo : Có cho tất có báo ; Ứng : Có cảm tất có ứng.
694.-Người ta
trong tâm trừ bỏ hết những sự lo nghĩ vớ vẩn, thời thiên lý (1) hiển hiện,
khoái hoạt vô cùng.
Lý-Tử-Dung-Cốc
(1) Thiên lý : Lẽ phải tự nhiên.
695.-Ba vạn
sáu nghìn ngày là mấy, nếu chẳng để lo thân, cho tâm yên lặng được một lúc, thì
cũng đáng thương.
Nhân-Sinh-Tất-Độc-Thư
696.-Người ta
có chút việc chưa được hả lòng, cũng là cái hay ; nếu cái gì cũng được hả lòng,
thì thế nào cũng có cái dở to theo sau.
Nhân-Sinh-Tất-Độc-Thư
697.-Cái vui tự
nhiên mới thật là vui ; nghĩ cho kỹ, trong vũ trụ (1) còn có việc gì nũa.
Trần-Bạch-Sa
(1) Vũ trụ : Khoảng trong trời đất bốn phương gọi là vũ
(không gian) ; thời giờ đời cổ qua đời nay gọi là trụ (thời gian).
698.-Người ta
nghĩ đến lúc chết đi, không còn có một vật gì nữa, thì mưu kia, kế nọ tự nhiên
tiêu trừ.
Cao-Phan-Long
(Loài vật)
699.-Hai con hổ
tranh mồi đánh nhau, con nhớn tất đau, con nhỏ tất chết.
Trần-Trẩn
700.-Áo cừu
tuy rách, không thể dùng da chó mà vá được.
Xuân-Thu-Hậu-Ngữ
701.-Chim bị bắn
sẩy, thường sợ cây cong.
Phó-Dịch
702.-Cái bóng
không vật gì cong mà thẳng được, cái vang không vì tiếng xấu mà tốt được.
Quản-Tử
703.-Cây thẳng
đẫn trước, giếng ngọt cạn trước.
Trang-Tử
704.-Đá đập được,
mà không thể làm mất được chất rắn ; son mài được, mà không thể làm mất được sắc
đỏ.
Lã-Thị-Xuân-Thu
705.-Ngựa giống
như hươu, thì già nghìn vàng ; hươu thật thì không bao giò được giá ấy.
Hoài-Nam-Tử
706.-Cá, giải
chán vực sâu mà ra chỗ nông, cho nên mắc phải chài lưới ; chim, muông chán rừng
rậm mà xuống đồng bằng, cho nên bị phải cạm bẫy.(Người ta không biết yên phận
thì thường khổ).
Hàn-Thi-Ngoại-Truyện
707.-Gấm vóc
mà xé rách từng mảnh, không bằng vải thường mà còn nguyên.
Bão-Phác-Tử
708.-Những thứ
hổ báo ăn thừa, là thứ chuột bọ tranh nhau chí chết.
Bão-Phác-Tử
709.-Ngọc mà
hóa ra đá, châu mà hóa ra sỏi, là tại lời gièm pha cả (Những lời gièm pha làm
cho cái hay hóa dở).
Luận-Hành
Chương
Thứ Tư
(Câu vặt)
710.-Không phải
thần đáng tế mà tế, là siểm nịnh.
Luận-Ngữ
711.-Ba lần gẫy
tay mới hay thuốc.
Tả-Truyện
712.-Tóc ngắn
tấm lòng dài.
Tả-Truyện
713.-Người đàn
bà góa không nghĩ việc dệt vải mà lo nhà nước nguy vong (quên việc mình, lo việc
nước).
Tả-Truyện
714.-Chó anh
Chích (1) cắn vua Nghiêu (2), không phải tại vua Nghiêu bất nhân, mà tại vua
Nghiêu không phải là chủ nó.
Khoái-Triệt
(1) Chích : Tên thằng ăn trộm.
(2) Nghiêu : Một bậc thánh đế thời cổ.
715.-Không phải
thổ nghi, giồng cũng không mọc ; không phải ý muốn, dạy cũng không thành ?
Sử-Ký
716.-Người
sinh ở đời như bóng ngựa câu qua cửa sổ.
Trương-Lương
717.-Vì nước
quên nhà, vì công quên tư.
Giả-Nghị
718.-Muốn cho
nước sôi nguội dần, một người đun, trăm người khuấy vẫn vô ích ; sao bằng rút củi
ra và tắt lửa đi.
Mai-Thặng
719.-Thiên hạ
có người sợ bóng mình, ghét vết mình, cắm cổ chạy, vết lại càng nhiều, bóng lại
càng nhanh ; chẳng bằng đến chỗ rợp mà nghỉ, thì tự nhiên bóng mất hẳn và vết
tuyệt ngay. (Sửa mình thì tự khắc những lời gièm pha che bai tịt mất).
Mai-Thặng
720.-Chẳng hôi
thối thì ruồi, nhặng đã chẳng hay đến.
Trần-Phồn
721.-Thợ vẽ
ghét vẽ chó, ngựa, thích vẽ mà quỷ, vì sự thực khó hình dung, mà sự hão huyền dễ
bày đặt vậy.
Trương-Hành
722.-Kẻ sĩ nhiều
người cậy “tài” mà hỏng mất “nết”.
Phùng-Diễn
723.-Gai góc
không phải là nơi phượng hoàng đậu.
Cừu-Lãm
724.-Củi cả rừng
không thể tiếp được lửa ma chơi, nước cả sông không đổ đầy được chén thủng.
Vương-Phù
725.-Bạn nghèo
hèn không nên quên, vợ hàn vi không nên bỏ.
Tống-Hoằng
726.-Báo chết
để da, người ta chết để tiếng.
Vương-Ngạn-Trương
727.-Chim đến
lúc cùng thời mổ, muông đến lúc cùng thời cào, người ta đến lúc cùng thời dối
giá.
Nhan-hồi
728.-Tính người
tầm thường, như nước ở lọ ; lọ vuông nước vuông, lọ tròn nước tròn.
Vương-Hóa-Cơ
729.-Biết con
không ai bằng cha.
Quản-Tử
730.-Cá mất nước
thì cá chết, nước mất cá, nước vẫn là nước.
Vựng-Uyển
731-Lòng người
nham hiểm hơn núi sông.
Trang-Tử
732.-Kẻ, có mặt
người ta, hay nịnh hót, thì khi người ta vắng mặt, cũng hay chê bai.
Trang-Tử
733.-Vượn, khỉ
mà mặc áo cho đẹp, tất cào, cắn, xé rách, sau mới hả lòng.
Trang-Tử
734.-Lưới trời
lồng lộng, thưa mà không sót.
Lão-Tử
735.-Vật trong
thiên hạ chẳng gì mềm nhũn bằng nước, thế mà to vô hạn, sâu vô cùng.
Hoài-Nam-Tử
736.-Nguồn
trong, dòng nước trong ; nguồn đục, dòng nước đục.
Tuân-Tử
Tuân-Tử
737.-Giời
không vì người ghét rét, mà bỏ mùa đông.
Tuân-Tử
738.-Chim hồng,
chim hộc, cất cánh bay xa, là nhờ có lông cánh ; lông nhỏ trên lưng, lông tơ dưới
bụng, mọc thêm một nắm, bay chẳng cao hơn, rụng mất một nắm, bay chẳng thấp
hơn.
Hàn-Thi-Ngoại-Truyện
739.-Một mình
trông, chẳng bằng cùng nhiều người trông, sáng hơn ; một mình nghe, chẳng bằng
cùng nhiều người nghe, suốt hơn.
Hàn-Thi-Ngoại-Truyện
740.-Thân dê
mà lốt cọp, thấy cỏ thì thích, thấy chó sói thì run, quên mất cả bộ da khoác là
lốt cọp.
Dương-Tử
741.-Người ta
ai cũng có lòng ham muốn, ham muốn thời cầu, cầu thời tranh, tranh thời chết.
Tuân-Tử
742.-Con gà ấp
mổ con cáo, con chó đẻ gừ con cọp, tuy hăng hái thật, song cái chết đã theo
sau.
Ngô-Tử
743.-Núi nhọn
thời không cao, song hẹp thời không sâu.
Tân-Tụ
744.-Con hổ,
con báo chưa đủ lông vằn, đã có chí ăn thịt trâu, dê ; chim hồng, chim hộc chưa
đủ lông cánh, đã dắp lòng bay xa bốn bể.
Thi-Tử
745.-Lửa bốc
lên cao, nước chảy xuống thấp, thế mà lửa bao giờ cũng thua nước.
Văn-Trung-Tử
746.-Giận bốc
lên nóng hơn lửa ; lưỡi nói ra sắc hơn gươm.
Hoàng-Hiến
747.-Tay áo
dài thì múa khéo, tiền bạc nhiều thì buôn giỏi.
Hàn-Phi-Tử
748.-Mặt trời
mặt trăng làm sáng sủa cho thiên hạ mà không ai ơn ; đất nước núi sông, làm no ấm
cho thiên hạ, mà không ai quí.
Nhâm-Tử
749.-Con cá no
muốn làm khác hẳn loài cá, bỏ nước nhảy lên bờ thì phải chết ; con hổ muốn làm
khác hẳn loài hổ, bỏ núi ra đồng bằng thì phải bắt.
Quan-Doãn-Tử
750.-Trời xa
mà đáng tin, người gần mà khó biết.
Cổ-Ngữ
751.-Người giỏi
không thương thân mình chết, mà lo nước nhà suy.
Tô-Tuân
752.-Phú quí
là cạm của trời, bần tiện là trường học của trời, hoạn nạn là roi vọt của trời.
Tạ-Mai-Trang
753.-Ngày thường
chẳng thắp hương, lúc nguy cấp mới ôm chân phật.
Cổ-Ngạn
754.-Ngựa hèn
hay quanh quẩn ở chuồng.
Cổ-Ngạn
755.-Mõ vì kêu
mà chóng thủng, dầu vì sáng mà chóng hao.
Cổ-Ngạn
756.-Ban ngày
chớ nói chuyện người, ban đêm chớ nói chuyện ma.
Cổ-Ngạn
757.-Cái tay
giận dỗi không đánh nổi cái mặt tươi cười.
Cổ-Ngạn
758.-Đem lửa
thử thì biết vàng tốt xấu, đem của thử thì biết người hay, hèn.
Cổ-Ngạn
759.-Nhà ở cần
có láng giềng tốt, đi đường xa cần có anh em bạn hay.
Cổ-Ngạn
760.-Người ta
sợ lửa hơn sợ nước, thế mà chết cháy ít, chết đuối vẫn nhiều.
Cổ-Ngạn
761.-Thiên hạ
dù loạn, nhà ta phải giữ cho trị; nhà ta chẳng may cũng loạn, thân ta, tâm ta
phải cố giữ cho trị.
Vô danh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét